ĐẠO GIÁO KHÁI LUẬN
- Tổng quan
Đạo giáo (Hán tự: 道教), Giáo lý về Đạo, là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, được xem là tôn giáo đặc hữu chính thống của xứ này. Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của Đạo giáo được xem nằm ở thế kỉ thứ 4 trước CN, khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Các tên gọi khác là Đạo Lão, Đạo Hoàng Lão, hay Đạo gia (道家).
Đạo giáo là một trong 3 tôn giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại, song song với Nho giáo và Phật giáo ngoại lai. Ba truyền thống tư tưởng nội sinh (Nho-Lão) và ngoại nhập (Phật) này đã ảnh hưởng rất lớn đến nền tảng văn hoá dân tộc Trung Quốc. Mặc dù có rất nhiều quan điểm khác biệt nhưng cả ba giáo lý này đã hoà hợp thành một truyền thống. Ảnh hưởng Tam giáo trong lĩnh vực tôn giáo và văn hoá vượt khỏi biên giới Trung Quốc, được truyền đến các nước Đông Nam Á lân cận như Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Tại Việt Nam,Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,…Đạo giáo đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y khoa, hoá học, toán học, khoa học – kỹ thuật và địa lí…
Vì xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác biệt và sự khó phân ranh rõ ràng với những tôn giáo khác nên người ta không nắm được số người theo Đạo giáo. Ở Việt Nam, sự phân biệt Đạo giáo với Phật giáo gần như rất ít người có thể phân định được, nếu như không nghiên cứu một cách nghiêm túc lịch sử vấn đề.
- Lịch sử hình thành
Đạo giáo khởi phát từ thời thượng cổ, thâu nhiếp nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời nhà Chu (周朝, 1040-256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành (五行), thuyết về năng lượng, chân khí (氣), thuyết âm dương (陰陽) và Kinh Dịch (易經). Nhưng, ngoài chúng ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim (煉金術) và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có lẽ bắt nguồn từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Trang Tử Nam Hoa chân kinh, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế (黃帝, (Vị đế thời thượng cổ tên là Hoàng, xin đừng nhầm với tước vị Hoàng đế) và bà Tây Trì Vương mẫu (西王母), những hình tượng đã có trong thời nhà Thương (商朝), thiên niên kỉ thứ hai trước CN.
2.1. Lão Tử và Đạo Đức kinh
Thời thượng cổ có một triết gia tên Lão Tử. Đạo gia cho rằng, chính ông là tác giả của bộ Đạo Đức kinh. Tiểu sử của ông bị huyền thoại vây phủ và vì vậy gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền ông sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước CN, một thời kì được đánh dấu bằng chiến tranh và loạn li. Nhưng thời này cũng được xem là thời vàng son của triết học Trung Quốc vì nhiều nhà tư tưởng đã tìm cách giải hoá vấn đề làm sao để an dân lập quốc. Do đó mà người sau cũng gọi thời kì này là thời của Bách gia chư tử – “hàng trăm trường phái”. “Đạo Đức kinh” hàm dung những tư tưởng này, hướng đến những nhà cầm quyền và cách tạo hoà bình.
“Đạo Đức kinh” cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử. Trong dạng được truyền ngày nay thì nó bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo Đức kinh là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một thế giới quan, nhận thức luận về vũ trụ và nhân sinh hết sức sâu sắc xong cũng đầy tính huyền bí của vũ trụ. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng trăm bản chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ Đạo Đức kinh này.
2.2. Trang Tử và “Nam Hoa chân kinh”
Bộ Trang Tử Nam Hoa chân kinh thì được viết với một phong cách hoàn toàn khác. Tác phẩm này được biên soạn ở thế kỉ thứ 4 trước CN và tương truyền tác giả là Trang Tử (vì vậy mà tên ngắn của tác phẩm này cũng là Trang Tử, tên tác giả). Trong Nam Hoa kinh, thể tính của Đạo được miêu hoạ qua những ngụ ngôn, những mẩu chuyện hàm dung những cuộc đàm thoại triết học. Trang Tử lấy nhiều điểm được nhắc đến trong Đạo Đức kinh làm chủ đề. Như trường hợp Đạo Đức kinh, việc xác nhận tác giả của tác phẩm này cũng là một điểm tranh luận lớn. Mặc dù Trang Tử được xem là một nhân vật lịch sử nhưng theo những nhà nghiên cứu sau này thì tác phẩm Nam Hoa chân kinh phần lớn có lẽ được các đệ tử sau này biên tập.
Trong thời Lão Trang, người ta không thấy dấu tích của một tổ chức hay cơ cấu triết học hoặc tôn giáo nào có thể được gọi là Đạo giáo. Chỉ còn một vài tác phẩm hàm dung tư tưởng Đạo giáo được lưu lại, tôn vinh là Thánh điển khi Đạo giáo dần dần hình thành. Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau là những tác phẩm này đã được phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với những phương pháp tu tập tôn giáo và tín ngưỡng.
- Đạo giáo như một hệ thống triết học tôn giáo
3.1. Triết Học Đạo giáo so với tín ngưỡng Đạo giáo
Sự phân biệt triết học Đạo giáo và tín ngưỡng Đạo giáo là một cách nhìn từ phương Tây và về mặt khái niệm thì nó cũng không đủ rõ ràng. Nó có vẻ như là một phương tiện của nền Hán học châu Âu, được áp dụng để có thể nắm bắt và miêu tả được những khía cạnh lịch sử Đạo giáo lâu dài một cách dễ dàng hơn. Nhìn kĩ thì người Trung Quốc cũng đã có sự phân biệt vi tế trong cách gọi tên trào lưu này. Khi dùng từ Lão Trang (老莊) hoặc Đạo gia (道家) người ta liên tưởng đến khía cạnh triết học và từ Đạo giáo (道教) hoặc Hoàng Lão (黃老) được dùng để chỉ đến khía cạnh tín ngưỡng tôn giáo. Tuy vậy, Đạo giáo cũng là một hiện tượng nhiều khía cạnh như những tôn giáo khác. Trong dòng thời gian gần ba nghìn năm qua, nhiều hệ thống và chi phái rất khác nhau đã được hình thành. Do vậy mà sự phân biệt giữa triết học và tôn giáo ở đây là một sự giản hoá quá mức và trong giới học thuật người ta cũng không nhất trí có nên phân biệt như vậy nữa hay không, bởi vì nó không tương thích với sự phức tạp của đối tượng nghiên cứu.
Mặc dù vậy, hai khái niệm đối xứng bên trên cũng mang đến một ích lợi nhất định vì chúng hỗ trợ bước đầu phân tích Đạo giáo. Nhưng ta nên nhớ là sự việc phức tạp hơn là sự phân biệt đơn giản trên có thể lột toát được hết.
- 2. Khái niệm Đạo
Tên Đạo giáo xuất phát từ chữ Đạo, một danh từ triết học Trung Hoa đã được dùng rất lâu trước khi bộ Đạo Đức kinh xuất hiện, nhưng chỉ đạt được tầm quan trọng đặc biệt, phổ cập trong văn bản này. Đạo ban đầu có nghĩa là “con đường”, nhưng ngay trong tiếng Hán cổ đã có nghĩa “phương tiện”, “nguyên lí”, “con đường chân chính”. Nơi Lão Tử, danh từ này được hiểu như một nguyên lí cơ sở của thế gian, xuyên suốt vạn vật. Theo kinh văn, Đạo là hiện thật tối cao, là sự huyền bí tuyệt đỉnh. Trong chương 4, “Đạo đức kinh” viết:
道沖,而用之或不盈 。淵兮,似萬物之宗
(Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề, tự vạn vật chi tông.)
Nghĩa: Đạo trống không, nhưng đổ vào mãi mà không đầy. Đạo sâu thẳm, dường như là tổ tông của vạn vật.
Đạo là đơn vị tối sơ, nguyên lí của vũ trụ và là cái tuyệt đối. Vạn vật xuất phát từ Đạo, nghĩa là cả vũ trụ và như vậy, trật tự vũ trụ cũng từ Đạo mà ra, tương tự như nguyên tắc tự nhiên, nhưng Đạo lại chẳng phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn gốc và sự dung hoà tất cả những cặp đối đãi và như thế, không thể định nghĩa được. Đạo là Vô danh, như câu đầu của bộ kinh này cho thấy:
道可道,非常道 。名可名,非常名 。
無名天地之始,有名萬物之母 。
(Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh.
Vô danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh vạn vật chi mẫu. )
Nghĩa: Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật sự.
Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật.
Về mặt triết học thì Đạo có thể được xem là siêu việt mọi khái niệm vì nó là cơ sở của tồn tại, là nguyên nhân siêu việt và như vậy, là tất cả, bao gồm tồn tại và phi tồn tại. Trên cơ sở này thì ta không thể luận đàm, định nghĩa được Đạo vì mỗi định nghĩa đều có bản chất hạn chế. Nhưng Đạo lại là cả hai, là sự siêu việt mọi hạn lượng mà cũng là nguyên lí bên trong trong vũ trụ. Cái Dụng (用) của Đạo tạo ra âm dương, nhị nguyên, những cặp đối đãi và từ sự biến hoá, chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
3.3. Đạo giáo như một tôn giáo
Sự khác biệt giữa Đạo giáo triết học và Đạo giáo tôn giáo được dùng ở đây vì những nguyên nhân thực tiễn. Có thể được hiểu như sau: Đạo giáo triết học theo lí tưởng của một Thánh nhân, thực hiện Đạo bằng cách gìn giữ một tâm thức nhất định, trong khi Đạo giáo tôn giáo tìm cách đạt Đạo qua việc ứng dụng những phương pháp như Tĩnh toạ (Khí công, Thái cực quyền), sự tập trung cao độ, thiết tưởng (visualization), hình dung, thuật luyện kim, nghi lễ và huyền học để tạo một thế giới vi quan từ thân tâm – một ánh tượng của đại vũ trụ và qua đó đạt được sự hợp nhất với vũ trụ.
Thời điểm đầu tiên được xác nhận của Đạo giáo như một tôn giáo là năm 215, khi Tào Tháo (曹操) chính thức công nhận trào lưu Thiên sư đạo như một tổ chức tôn giáo.
Nhiều trường phái Đạo giáo tìm cách tu tập đạt trường sinh bất tử. Chúng có lẽ xuất phát từ các phép tu thuộc Tát – mãn giáo (薩滿教) và sự sùng bái trường sinh bất tử và được hoà nhập với nhánh Đạo giáo triết học sau này.
Tất cả các trường phái Đạo giáo đều nỗ lực tu tập để trở về nguồn, được miêu tả bằng những thuật ngữ Đạo giáo như: trường sinh bất lão, trường sinh bất tử, đắc đạo thành tiên,…
3.3.1. Thiên Sư Đạo – Tổ chức
3.3.1.1. Trương Đạo Lăng
Tổ chức Đạo giáo đầu tiên xuất hiện trong thế kỉ thứ hai sau CN, khi Trương Đạo Lăng (張道陵) khởi xướng phong trào Thiên sư đạo (天師道) tại tỉnh Tứ Xuyên năm 142. Trong phái mang tên Ngũ Đẩu Mễ Đạo (五斗米道) gọi theo số gạo đồ đệ phải nộp để gia nhập, người ta tìm thấy những yếu tố, tư tưởng cứu thế chủ và cách mạng: Vương triều Hán nên bị lật đổ để Thiên sư Trương Đạo Lăng cai trị và thời đoạn cuối của thế giới bắt đầu. Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo.
Trương Lăng tự là Phụ Hán 輔漢 (giúp nhà Hán), người nước Phái 沛, quê đất Phong 丰 (nay là huyện Phong, tỉnh Giang Tô). Ông thuộc hậu duệ của Hán Lưu Hầu Trương Lương 漢留侯張良. Trương Lăng xuất thân là một đại nho. Thuở nhỏ ông đã tinh nghiên Đạo Đức Kinh, thiên văn, địa lý, Hà Đồ, Lạc Thư, thông đạt Ngũ Kinh. Đời Hán Minh Đế (58 -75), ông làm quan lệnh ở Giang Châu 江州 thuộc Ba Quận 巴郡 (nay là Trùng Khánh, Tứ Xuyên). Cho rằng Nho học vô ích, ông bèn học đạo trường sinh, ẩn cư trong núi Bắc Mang Sơn 北邙山. Triều đình phong chức Bác sĩ cho ông nhưng ông thác bệnh và từ chối. Hán Hoà Đế (tại vị 89-105) ba lần ra chiếu phong ông làm quan Thái Phó nhưng ông vẫn từ chối. Đời Hán Thuận Đế 順帝 (126-144), Trương Lăng vào Ba Thục 巴蜀, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn 鶴鳴山 (cũng gọi Cốc Minh Sơn 鵠鳴山), tự xưng được Thái Thượng Lão Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy 正一盟威, nên xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân 三天法師正一真人; còn nói Lão Quân phong ông làm Thiên Sư, nên đạo này cũng gọi là Thiên Sư Đạo. Năm 141 ông sáng tác đạo kinh, tôn Lão Tử làm giáo chủ. Trước tiên ông trị bệnh để thu hút quần chúng và sau đó là truyền đạo. Khi quy tụ được đông đảo quần chúng, Trương Lăng (bấy giờ bắt đầu gọi là Trương Đạo Lăng 張道陵 hay Trương Thiên Sư 張天師) tổ chức 24 điểm truyền đạo gọi là 24 Trị 治, trong đó ba trung tâm lớn là Dương Bình Trị 陽平治, Lộc Đường Trị 鹿堂治, và Hạc Minh Trị 鶴鳴治. Người nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo (gọi là tín mễ 信米), do đó đạo này gọi tên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo 5 đấu gạo), cũng gọi là Mễ Vu 米巫 bởi vì đạo này chịu ảnh hưởng nặng nề của vu giáo 巫教 của dân tộc thiểu số tại Ba Thục. Một cách giải thích khác: Ngũ Đấu Mễ là Ngũ Đẩu Mẫu 五斗姆, tức là Bắc Đẩu Mẫu 北斗姆 trong Ngũ Phương Tinh Đẩu 五方星斗, đứng đầu trong các sao. Hai cách giải thích này đều thông hành; có thể lúc lập giáo, Trương Lăng đã có chủ ý như vậy. Và cho phù hợp với Nhị Thập Bát Tú (28 sao), sau này 24 Trị phát triển thành 28 Trị.
Khi Trương Lăng mất, con là Trương Hành 張衡 kế thừa việc truyền đạo. Khi Trương Hành qua đời, con của Trương Hành là Trương Lỗ 張魯 kế vị. Cả ba đời ông cháu được người đời gọi là Tam Trương, nhưng trong nội bộ phải gọi là Tam Sư: Trương Lăng là Thiên Sư 天師, Trương Hành là Tự Sư 嗣師, và Trương Lỗ là Hệ Sư 系師.
24 Trị và 28 Trị
24 Trị ban đầu gọi là Chính Trị 正治 (gồm Thượng Bát Trị, Trung Bát Trị, và Hạ Bát Trị); còn 4 Trị tăng bổ về sau gọi là Biệt Trị 別治 hay Bị Trị 備治:
- Thượng Bát Trị là:
- Dương Bình Trị 陽平治 (tại huyện Cửu Lũng 九隴, châu Bành 彭, quận Thục 蜀)
- Lộc Đường [Sơn] Trị 鹿堂(山)治 (tại huyện Miên Trúc 綿竹, châu Hán 漢);
- Hạc Minh [Thần Sơn Thượng] Trị 鶴鳴(神山上)治 (tại Hạc Minh Sơn, nay là huyện Đại Ấp 大邑, thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên);
- Ly Nguyên Sơn Trị 漓沅山治 (tại huyện Cửu Lũng, châu Bành, quận Thục);
- Cát Quý Sơn Trị 葛瑰山治 (tại huyện Cửu Lũng, châu Bành, quận Thục);
- Canh Trừ Trị 庚除治 (tại huyện Miên Trúc 綿竹, quận Quảng Hán 廣漢);
- Tần Trung Trị 秦中治 (tại huyện Đức Dương 德陽, quận Quảng Hán);
- Chân Đa Trị 真多治 (tại huyện Kim Đường 金堂).
- Trung Bát Trị là:
- Xương Lợi Trị 昌利治 (tại huyện Kim Đường);
- Lệ Thượng Trị 隸上治 (tại huyện Đức Dương, quận Quảng Hán);
- Dũng Tuyền Sơn Thần Trị 涌泉山神治 (tại huyện Tiểu Hán 小漢, quận Toại Ninh 遂寧);
4, Trù Canh Trị 稠稉治 (tại huyện Tân Tân 新津, huyện Kiên Vi 犍為);
- Bắc Bình Trị 北平治 (tại huyện Bành Sơn 彭山, châu Mi 眉);
- Bản Trúc Trị 本竹治 (tại huyện Tân Tân 新津, châu Thục 蜀);
- Mông Tần Trị 蒙秦治 (tại huyện Đài Đăng 台登, quận Việt Huề 越巂);
- Bình Cái Trị 平蓋治 (tại huyện Tân Tân, châu Thục).
- Hạ Bát Trị là:
- Vân Đài Sơn Trị 雲台山治 (tại huyện Thương Khê 蒼溪, châu Lương 閬, quận Ba Tây 巴西);
- Tận Khẩu Trị 濜口治 (tại huyện Giang Dương 江陽, quận Hán Trung 漢中);
- Hậu Thành Sơn Trị 後城山治 (tại huyện Thập Phương 什邡, châu Hán);
- Công Mộ Trị 公慕治 (tại huyện Thập Phương 什邡, châu Hán);
- Bình Cương Trị 平岡治 (tại huyện Tân Tân, châu Thục);
- Chủ Bạc Sơn Trị 主簿山治 (tại huyện Bồ Giang 蒲江, châu Cung 邛);
- Ngọc Cục Trị 玉局治 (tại cửa Nam của Thành Đô);
- Bắc Mang Sơn Trị 北邙山治 (tại huyện Lạc Dương 洛陽, Đông Đô 東都).
- 4 Biệt Trị (Bị Trị) đều ở phía đông bắc của Kinh Sư Lạc Dương:
- Cương Đê Trị 岡氐治 (tại núi Lan Vũ 蘭武);
- Bạch Thạch Trị 白石治 (tại núi Huyền Cực 玄極);
3 Cụ Sơn Trị 具山治 (tại núi Phạn Dương 飯陽);
- Chung Mậu Trị 鍾茂治 (tại núi Nguyên Đông 元東).
3.3.1.2. Cơ cấu tổ chức
Người mới nhập môn gọi là “quỷ tốt” 鬼卒; tu hành lâu năm lên «tế tửu» 祭酒; khi đủ trình độ cai quản một Trị thì gọi là «trị đầu đại tế tửu» 治頭大祭酒. Tất cả đều dưới quyền của “sư quân” 師君 là Trương Lỗ. Các tín đồ phải giữ giới và tin cậy nhau. Người lầm lỗi phải nhập «tĩnh thất» 靜室 để sám hối ăn năn. Ngoài ra có chức vụ là “quỷ lại” 鬼吏, chịu trách nhiệm cúng cầu xin cho bệnh nhân mau khỏi bệnh. Khi cúng cầu khỏi bệnh và khỏi tội, cần lập 3 lá sớ viết tên bệnh nhân vào đó (gọi là Tam quan thủ thư 三官手書; tam quan là: Thiên, Địa, Thủy): Một đem lên núi, một chôn xuống đất, và một ném xuống nước. Trương Lỗ còn lập ra Đồ thán trai pháp 涂炭齋法 (nghi thức trai giới), tuy giản đơn nhưng được xem là khởi nguyên của nghi thức trai tiêu 齋醮 về sau của Đạo giáo. Các tế tửu còn có nhiệm vụ thuyết giảng Lão Tử Đạo Đức Kinh dựa vào bản chú của Trương Lỗ, gọi là Lão Tử Tưởng Nhĩ chú 老子想爾注. Ngoài việc dùng phù lục bùa chú để trị bệnh; cúng tế và trai giới để cầu xin giải tội và trừ tai nạn; tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo còn thực hành thủ nhất, hành khí, phòng trung, v.v… Trong phạm vi 28 Trị, Trương Lỗ thiết lập các nghĩa xá 義舍, cung cấp gạo thịt, thức ăn miễn phí cho người qua đường. Về mặt cai trị dân, Trương Lỗ dùng hình phạt khoan dung, cấm dân uống rượu, và thi hành nhiều biện pháp có lợi cho dân. Trong cục diện đại loạn cuối đời Hán, chỉ có khu vực Ba Thục và Hán Trung do Trương Lỗ cai trị là thái bình, do đó ảnh hưởng của Trương Lỗ rất lớn.
3.3.2. Nhân vật và sự phát triển
- Trương Lỗ
Trương Lỗ cai trị khu vực Ba Thục và Hán Trung gần 30 năm với một chính quyền hợp nhất tôn giáo với chính trị. Đến năm Kiến An 建安 20 (tức năm 215 CN) tháng 3, Tào Tháo đánh Hán Trung. Đến tháng 11, Trương Lỗ thua, phải dắt gia quyến và thuộc hạ về Nghiệp Thành 鄴城 quy hàng Tào. Tào Tháo dùng lễ trọng đãi Trương Lỗ để lợi dụng thế lực và ảnh hưởng của Trương Lỗ. Tào Tháo phong Trương Lỗ làm Trấn Nam Tướng Quân 鎮南將軍, Lương Trung Hầu 閬中侯. Năm người con của Trương Lỗ cũng được phong tước hầu. Tào Tháo và Trương Lỗ còn kết thông gia với nhau. Chính quyền của Trương Lỗ tại Ba Thục và Hán Trung bị diệt. Tuy nhiên Ngũ Đấu Mễ Đạo vẫn phát triển, dù tổ chức bị hỗn loạn, nhất là sau khi Trương Lỗ bệnh và mất. Tín đồ mạnh ai nấy truyền đạo, không theo phép tắc gì cả. Nhiều tế tửu lợi dụng tôn giáo để làm việc bất chính, hoang dâm.
- Trần Thụy khởi nghĩa
Đầu đời Tây Tấn, một người quê ở quận Kiên Vi 犍為 (nay thuộc Tứ Xuyên) tên là Trần Thụy 陳瑞 nổi lên truyền đạo tại Ba Thục. Xưa kia Trần Thụy cũng theo Ngũ Đấu Mễ Đạo, nay tự xưng là Thiên Sư 天師, mô phỏng và cải biên giáo quy. Khu vực truyền đạo cũng gọi là trị (hay đạo trị), người nhập môn phải nộp lễ vật gồm một đấu rượu và một con cá tươi. Các tín đồ nào mà trong nhà có việc tang chế hay thai sản thì trong vòng 100 ngày đều không được phép lui tới đạo trị. Trần Thụy cũng lập ra các chức tế tửu. Tế tửu nào có cha, mẹ, hay vợ qua đời thì không được mang khăn tang. Tế tửu cũng không được phép thăm viếng người bệnh hay người mới sinh con. Tín đồ theo Trần Thụy đông tới mấy ngàn người. Thanh thế càng ngày càng lớn. Năm Hàm Ninh 咸寧 thứ 3 (tức 277 CN) quan trấn nhậm Ích Châu 益州 là thứ sử Vương Tuấn 王浚 quy Trần Thụy vào tội bất hiếu và đem quân đánh dẹp, giết Trần Thụy và nhiều tế tửu cốt cán, đốt cháy các cơ sở truyền đạo (tức đạo trị). Quan thái thú Ba Thục vì là tín đồ của Trần Thụy nên bị bãi chức.
- Lý Đặc và Lý Hùng khởi nghĩa và chính quyền Thành Hán
Không lâu sau khi Trần Thụy bị giết, vào các năm Vĩnh Ninh 永寧 và Thái An 太安 (301-303) đời vua Huệ Đế 惠帝 (Tư Mã Trung 司馬衷) của Tây Tấn, tại Tứ Xuyên nổi lên cuộc khởi nghĩa của các lưu dân ở Quan Lũng 關隴 và tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo (vốn là dân tộc thiểu số Tung 賨) do Lý Đặc 李特 và Lý Hùng 李雄 lãnh đạo. Lý Đặc là dân thiểu số Tung, theo Ngũ Đấu Mễ Đạo. Năm Vĩnh Ninh (301) Lý Đặc khởi nghĩa. Tháng Giêng năm Thái An (303) Lý Đặc kéo binh tấn công Thành Đô. Tháng 2, Lý Đặc tử trận, nghĩa binh chết thê thảm. Con của Lý Đặc là Lý Hùng dẫn tàn binh rút lui. Sau cùng, một nhánh quân khởi nghĩa do Phạm Trường Sinh 范長生 (của Ngũ Đấu Mễ Đạo) chỉ huy đã trợ giúp lương thảo cho quân của Lý Hùng. Cùng năm này, họ lại tấn công Thành Đô, và lần này thành công. Lý Hùng năm Vĩnh Hưng 永興 nguyên niên (tức 304 CN) xưng là Thành Đô Vương 成都王, tôn Phạm Trường Sinh làm vua, nhưng Phạm từ chối. Thế là tháng 6 năm Vĩnh Hưng thứ 2 (tức 305 CN) Lý Hùng xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Thành 大成. Ngay khi Phạm Trường Sinh từ chối làm vua, Lý Hùng phong Phạm Trường Sinh làm Thừa tướng, rồi ban hiệu là Thiên Địa Thái Sư 天地太師, và phong làm Tây Sơn Hầu 西山侯. Phạm Trường Sinh mất, con là Phạm Bí 范賁 được kế vị thừa tướng. Lý Hùng cai trị 30 năm, chính sách khoan dung; cả thế cục đại loạn mà vùng Ba Thục vẫn bình yên vô sự. Truyền ngôi đến đời thứ 3 là Lý Thọ 李壽 thì đổi quốc hiệu là Hán, do đó sử sách gọi chính quyền Lý Hùng là Thành Hán 成漢. Chính quyền Thành Hán kéo dài 47 năm, trải 6 đời; đến năm Vĩnh Hòa thứ 3 đời Đông Tấn (tức 347 CN) thì bị Hoàn Ôn 桓溫 diệt.
- Tôn Ân khởi nghĩa
Ban đầu Ngũ Đấu Mễ Đạo gồm các tín đồ dân dã, nhưng khi giáo phái phát triển, thu hút rất nhiều hào tộc, thế gia, thậm chí quan lại, thí dụ họ Vương và họ Tôn ở Lang Nha, họ Tạ và họ Ân ở quận Trần, họ Khổng ở Cối Kê, họ Chu ở Nghĩa Hưng, họ Hứa họ Đào và họ Cát ở Đan Dương, v.v… Trong khoảng đời Tấn, các sử gia gọi Ngũ Đấu Mễ Đạo là Thiên Sư Đạo. Tuy nhiên có sử gia cho rằng Ngũ Đấu Mễ Đạo là tên gọi dân dã, còn chính nội bộ tín đồ thì tự xưng giáo phái mình là Thiên Sư Đạo hoặc Chính Nhất Đạo.
Trong giới tín đồ gốc sĩ tộc thế gia có Đỗ Tử Cung 杜子恭 là đầu lĩnh ở Tiền Đường 錢塘. Ông có nhiều đệ tử, xuất thân là thế gia đại tộc ở Giang Nam. Đỗ Tử Cung mất, môn đồ là Tôn Thái 孫泰 và Tôn Ân 孫恩 kế nghiệp. Tôn Ân tự là Linh Tú 靈秀, quê ở Lang Nha, vừa là cháu vừa là đệ tử của Tôn Thái. Tôn Thái tự xưng được chân truyền pháp thuật từ Tử Cung, nên tín đồ mê muội coi như thần nhân. Hiếu Vũ Đế 孝武帝 (tại vị 373-396) đời Đông Tấn phong Tôn Thái làm Phụ Quốc Tướng Quân 輔國將軍 và phong làm thái thú ở Tân An 新安. Tôn Thái lợi dụng tà thuật mê hoặc và quy tụ quần chúng, triều đình sợ Tôn Thái làm loạn nên sai Cối Kê Vương là Tư Mã Đạo Tử 司馬道子 bắt Tôn Thái giết đi. Tôn Ân và dư đảng chạy trốn ra hải đảo, lập chí báo thù cho sư phụ. Rồi Tôn Ân cùng với em rể là Lư Tuần 盧循 lãnh đạo khoảng 10 vạn tín đồ của 8 quận đánh Cối Kê (8 quận là: Cối Kê 會稽, Ngô Quận 吳郡, Ngô Hưng 吳興, Nghĩa Hưng 義興, Lâm Hải 臨海, Vĩnh Gia 永嘉, Đông Dương 東陽, và Tân An 新安). Chiếm được Cối Kê, Tôn Ân tự xưng là Chinh Đông Tướng Quân 征東將軍 và gọi quân binh của mình là «trường sinh nhân» 長生人. Triều đình phái quân chinh phạt. Năm Nguyên Hưng nguyên niên (402 CN), thuộc hạ Lưu Lao 劉牢 của Tôn Ân bại trận, bèn nhảy xuống biển tự trầm. Tôn Ân thua trận ở Lâm Hải 臨海 cũng nhảy xuống biển tự trầm. Cho rằng Tôn Ân đã thành thủy tiên 水仙, số tín đồ tự trầm theo hơn trăm người. Lư Tuần kế vị, chiến đấu ngoan cường. Năm Nghĩa Hi 義熙 thứ 7 (tức 411 CN) đời vua An Đế 安帝 của Đông Tấn, Lư Tuần đánh Quảng Châu, nhưng bị đại bại, bèn chạy sang Giao Châu. Thứ sử Giao Châu là Đỗ Huệ Độ 杜慧度 cùng các quan văn võ đánh tan quân Lư Tuần. Quân của Lư Tuần còn khoảng 2000 người. Dư đảng của Lý Tốn 李遜 (thái thú Cửu Chân, nổi loạn) là Lý Thoát 李脫 kết tập 5000 man dân để giúp Lư Tuần đánh ở bến sông phía Nam thành Long Biên 龍編 (tức Hà Nội của Việt Nam ngày nay). Binh của Đỗ Huệ Độ phóng đuốc trĩ vĩ (trĩ vĩ cự 雉尾炬) đốt chiến thuyền Lư Tuần. Lư Tuần nhảy sông tự trầm. Đỗ Huệ Độ cho vớt tử thi Lư Tuần và chặt đầu, gởi về Kiến Khang.
Tôn Ân và tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo vốn tin tưởng vào Tam Quan (Thiên, Địa, Thủy), đặc biệt tin tưởng vào sự thành thủy tiên 水仙 (tiên nước); cho nên khi khởi nghĩa thất bại họ đều nhảy xuống sông xuống biển. Người đời gọi là tự trầm 自沉 (nhảy xuống nước tự tử) nhưng tín đồ gọi là thủy giải 水解 (giải thoát trong nước) hy vọng đó là cách giải thoát thành tiên.
- Cải cách
Có thể thấy, sau khi chính quyền tôn giáo và chính trị hợp nhất của Trương Lỗ bị diệt, Ngũ Đấu Mễ Đạo không bị diệt theo mà lại phát triển rộng khắp Trung Quốc. Tín đồ ngoài thành phần bình dân còn có thành phần hào tộc thế gia. Giai đoạn phát triển mạnh của Ngũ Đấu Mễ Đạo là thời Lưỡng Tấn. Quá trình phát triển của Ngũ Đấu Mễ Đạo gợi ra hai vấn đề:
(1) Sự xung đột giữa Ngũ Đấu Mễ Đạo với chính quyền phong kiến: Ngũ Đấu Mễ Đạo phát khởi từ dân gian, trước bất công của xã hội phong kiến, họ phất cờ khởi nghĩa, hy vọng thành lập một xã hội thái bình và lý tưởng.
(2) Tổ chức suy thoái: Kể từ Trương Lỗ hàng Tào Tháo, cơ cấu tổ chức của giáo phái này phát triển về số lượng, lan rộng khắp nơi, vượt ra khỏi phạm vi của Ba Thục và Hán Trung, nhưng về bản chất thì các giáo nghĩa và giáo qui đã lỏng lẻo và suy thoái. Các tế tửu tự tung tự tác, bừa bãi thu nạp tài sản của tín đồ. Từ các vấn đề này, Ngũ Đấu Mễ Đạo đã trải qua hai cuộc cải cách do đạo sĩ Khấu Khiêm Chi 寇謙之 (Bắc Ngụy) và đạo sĩ Lục Tu Tĩnh 陸修靜 (Nam Triều Tống) tiến hành. Khấu Khiêm Chi cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) ở phương bắc nên nhánh này gọi là Bắc Thiên Sư Đạo, còn Lục Tu Tĩnh cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương nam nên nhánh này gọi là Nam Thiên Sư Đạo. Đến đời Tùy, Nam và Bắc Thiên Sư Đạo hợp nhất làm một. Khoảng đời Đường sử sách không chép rõ diễn biến của Thiên Sư Đạo. Sau đời Đường, cháu của Trương Lăng tức là Trương Thịnh 張盛 (con thứ 4 của Trương Lỗ) tiếp tục truyền giáo tại Long Hổ Sơn ở Giang Tây. Núi này dần trở thành một trung tâm truyền bá Thiên Sư Đạo và giáo phái mang tên mới là Long Hổ Tông 龍虎宗 theo tên của nơi truyền đạo là Long Hổ Sơn, và giáo phái này bước qua một giai đoạn lịch sử mới.
- Khấu Khiêm Chi và Bắc Thiên Sư Đạo
Khấu Khiêm Chi (寇謙之, 365-448) nguyên danh là Khiêm 謙, tự là Phụ Chân 輔真, nguyên quán ở Xương Bình 昌平, Thượng Cốc 上谷 (nay thuộc Bắc Kinh). Ông tự xưng là cháu đời thứ 13 của Ung Nô Hầu 雍奴侯 Khấu Tuần Chi 寇恂之 đời Đông Hán. Cha là Khấu Tu Chi 寇修之, làm thái thú ở Đông Lai 東萊 (thuộc Phù Kiên 苻堅). Anh là Khấu Tán 寇讚, làm thứ sử ở Nam Ung Châu. Khấu Khiêm Chi thuở nhỏ mộ đạo, có lòng thoát tục, đi tu theo Trương Lỗ. Tu đạo lâu năm nhưng không hiệu quả, về sau ông gặp Thành Công Hưng 成公興 (xưng là tiên) và theo Thành Công Hưng lên Hoa Sơn 華山 học đạo thuật, luyện thuốc, tịch cốc; rồi ông ẩn tu tại Tung Sơn 嵩山. Sau 7 năm, ông dần dần nổi danh.
Ngũ Đấu Mễ Đạo tức Thiên Sư Đạo từ khi Trương Lăng lập giáo đã quy tụ nông dân, phất cờ khởi nghĩa, xung đột với triều đình phong kiến. Do đó triều đình luôn cảnh giác giáo phái này. Năm Thần Thụy 神瑞 thứ 2 (tức năm 415) triều Minh Nguyên Đế 明元帝 (tức Thác Bạt Tự 拓跋嗣, tại vị 409-423) của Bắc Ngụy, Khấu Khiêm Chi tuyên bố Thái Thượng Lão Quân giáng lâm Tung Sơn, ban cho ông chức vị Thiên Sư, và ban cho bộ kinh «Vân Trung Âm Tụng Tân Khoa Chi Giới» 雲中音誦新科之誡 gồm 20 quyển (gọi tắt là Tân Khoa 新科). Khấu Khiêm Chi cũng nói rằng Lão Quân ra lệnh cho ông phải phổ truyền bộ Tân Khoa này, đồng thời chỉnh đốn Đạo giáo. Bộ kinh này (tất nhiên là sáng tác của Khấu Khiêm Chi) hiện nay đã mất nguyên bản. Bản Lão Quân Âm Tụng Giới Kinh 老君音誦誡經 chép trong Chính Thống Đạo Tạng gồm 1 quyển là tàn bản 殘本 (bản còn sót lại) của 20 quyển nguyên bản. Nhưng Lão Quân Âm Tụng Giới Kinh có thể giúp hình dung ra nguyên bản. Quyển kinh này có 30 điều, đại khái thừa nhận địa vị Thiên Sư của Khấu Khiêm Chi, bàn về cải cách tổ chức của các trị (bãi bỏ ngụy pháp của Tam Trương, bãi bỏ chế độ cha truyền con nối của các tế tửu, bãi bõ chế độ nhận tài vật, thuế và tô của tín đồ, v.v…), cách truyền phù lục, cách thụ giới, cách tu hành, cách viết tấu chương, cách cầu phúc trị bệnh, v.v… Năm Thái Thường 泰常 thứ 8 (tức năm 423) triều Minh Nguyên Đế của Bắc Ngụy, Khấu Khiêm Chi lại tuyên bố chắt của Lão Quân là Lý Phổ Văn 李譜文 giáng lâm Tung Sơn và truyền cho ông bộ Lục Đồ Chân Kinh 錄圖真經 (trên 60 quyển), ra lệnh ông phải phụng trì kinh này và phò tá Bắc phương Thái Bình Chân Quân 北方太平真君 (sau này là đạo hiệu của Thái Vũ Đế).
Sau khi chuẩn bị các bước như trên, Khấu Khiêm Chi rời núi Tung Sơn và đến kinh đô của Bắc Ngụy là Bình Thành 平城 (nay là Đại Đồng 大同 ở Sơn Tây 山西). Ông kết giao với một quan đại thần tên là Thôi Hạo 崔浩. Thông qua Thôi Hạo, ông dâng đạo thư lên Thái Vũ Đế 太武帝 (tức Thác Bạt Đào 拓跋燾, tại vị 424-452). Thái Vũ Đế mới lên ngôi, bản thân hâm mộ Đạo giáo, nghe Thôi Hạo tán dương Khấu Khiêm Chi nên trọng đãi và tín nhiệm ông. Năm sau (425), Thái Vũ Đế thiết lập Thiên Sư Đạo Trường 天師道場 ngay tại Bình Thành, lập đàn cao 5 tầng, tập hợp 120 đạo sĩ cúng tế cầu đảo mỗi ngày 6 lần. Năm 440, Khấu Khiêm Chi nói Thái Thượng Lão Quân giáng lâm bảo ông rằng Lão Quân đã ban đạo hiệu cho Thái Vũ Đế là Thái Bình Chân Quân. Thái Vũ Đế bèn cải niên hiệu là Thái Bình Chân Quân rồi đích thân đến đạo trường để nhận phù lục, và sau đó phong Khấu Khiêm Chi làm quốc sư 國師. Thiên Sư Đạo từ đó cực thịnh. (Niên hiệu Thái Bình Chân Quân bắt đầu từ năm 440 đến 451.)
Lợi dụng Thái Vũ Đế hâm mộ Đạo giáo và bài xích Phật giáo, Khấu Khiêm Chi bắt đầu tiến hành cải cách Thiên Sư Đạo (tức Ngũ Đấu Mễ Đạo). Nội dung chủ yếu của cuộc cải cách là:
– Kiên quyết ngăn cấm việc lợi dụng tôn giáo để làm loạn, phản nghịch triều đình. Khấu Khiêm Chi tuyên bố những kẻ đại nghịch bất đạo này là tặc dân 賊民 ngu ác đã coi thường Lão Quân, do đó sẽ bị trừng phạt. Cốt lõi của sự cải cách của Khấu Khiêm Chi là ông đưa luân lý Nho giáo (đặc biệt nhấn mạnh trung hiếu) vào giới luật của Thiên Sư Đạo. Theo đó, tín đồ tuân thủ giới luật sẽ không làm loạn chống lại triều đình.
– Bãi bỏ chế độ ép buộc tín đồ nộp thuế bằng tiền và nộp tô bằng gạo. Khi Trương Lỗ thống trị Hán Trung, thiết lập chính quyền chính-giáo hợp nhất, mỗi giáo khu (tức là trị) vừa là đơn vị hành chánh do các tế tửu cai trị. Họ có quyền trưng thu thuế bằng tiền và tô bằng gạo và xử lý chúng. Khấu Khiêm Chi bãi bỏ chế độ này để trút gánh nặng cho tín đồ. Ông phê phán đó là ngụy pháp của Tam Trương, và ông chủ trương dùng Tân Khoa (do Lão Quân ban truyền) để trừ ngụy pháp.
– Khấu Khiêm Chi chỉnh đốn tổ chức của Thiên Sư Đạo, tăng cường giới luật. Sau khi Trương Lỗ mất, Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) phát triển rộng khắp Trung Quốc, nhưng tổ chức hỗn loạn và giới luật lỏng lẻo. Khấu Khiêm Chi phản đối các tế tửu trưng thu tài vật của tín đồ; cấm tuyệt thuật phòng trung dâm uế giữa nam nữ; các tế tửu phải theo phép xưa của Nho giáo, khi cha mẹ chết thì phải để tang.
– Khấu Khiêm Chi bổ sung giới luật và trai nghi. Bổ sung các tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa, v.v… Đồng thời ông đề cao nghi thức trai tiêu. Ăn chay, tịch cốc, đạo dẫn chỉ có thể sống lâu, nhưng không thể trường sinh bất tử. Muốn trường sinh bất tử thì phải chú trọng trai tiêu. Trai 齋 là trai giới, tắm gội thanh khiết; tiêu 醮 là cúng bái thần linh đề cầu phúc giải tai họa. Trai tiêu (tục gọi là đạo trường 道場) là nghi thức truyền thống của Đạo giáo, tức là lập đàn cúng tế, đọc kinh, cầu đảo.
Cuộc cải cách của Khấu Khiêm Chi giải trừ sự mâu thuẫn xung đột giữa Đạo giáo với triều đình phong kiến vì nhờ bổ sung luân lý Nho giáo vào giới luật. Do đó một giáo phái ban đầu phát khởi từ dân gian đã phát triển thành tín ngưỡng của thành phần sĩ phu hào tộc, trở thành một công cụ phù hợp với nhu cầu của giai cấp phong kiến thống trị. Năm Thái Bình Chân Quân thứ 9 (tức năm 448) Khấu Khiêm Chi liễu đạo (83 tuổi).
- Lục Tu Tĩnh và Nam Thiên Sư Đạo
Lục Tu Tĩnh 陸修靜 (406-477) tự là Nguyên Đức 元德, quê ở Đông Thiên 東遷, Ngô Hưng 吳興 (nay là huyện Ngô Hưng của Chiết Giang), là hậu duệ của thừa tướng Lục Khải 陸凱 của nước Ngô thời Tam Quốc. Thuở nhỏ ông theo nghiệp Nho, nhưng hâm mộ Đạo giáo. Khi trưởng thành ông ly gia cát ái, vào núi tu luyện. Ông là tổ sư đời thứ 7 của Thượng Thanh Phái. Ông rất nổi tiếng nên cuối những năm Nguyên Gia 元嘉 (424-452) đời Tống Văn Đế 宋文帝 (Lưu Nghĩa Long 劉義隆) của Nam Triều, ông được mời vào cung giảng đạo thuyết pháp. Thái hậu sùng mộ Hoàng Lão nên bái Lục Tu Tĩnh làm thầy. Năm 461, ông ẩn tu tại Lư Sơn 廬山. Tống Minh Đế 宋明帝 (Lưu Úc 劉彧) của Nam Triều vốn hâm mộ và muốn hoằng dương Đạo giáo, nên cho xây Sùng Hư quán 崇虛觀 trên núi Thiên Ấn 天印 và mời Lục Tu Tĩnh trụ trì. Đạo giáo cực thịnh nhờ sự trọng vọng của triều đình. Năm 477, Lục Tu Tĩnh liễu đạo, các đệ tử đưa ông về Lư Sơn. Ông được ban thụy hiệu là Giản Tịch tiên sinh 簡寂先生, do đó đạo quán tại Lư Sơn đổi tên là Giản Tịch quán 簡寂觀. Sang đời Bắc Tống, vào những năm Tuyên Hòa 宣和 (1119-1125), vua Tống Huy Tông 宋徽宗 phong cho Lục Tu Tĩnh là Đan Nguyên Chân Nhân 丹元真人. Đệ tử của ông có nhiều người nổi tiếng như Tôn Du Nhạc 孫游岳 (398-489, sau là tổ sư đời thứ 8 của Thượng Thanh Phái), Lý Quả Chi 李果之, v.v…
Lục Tu Tĩnh trứ tác rất nhiều. Tác phẩm hiện tồn của ông và được sưu tập trong Chính Thống Đạo Tạng là Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Chúng Giản Văn 太上洞玄靈寶眾簡文, Động Huyền Linh Bảo Ngũ Cảm Văn 洞玄靈寶五感文, Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược 陸先生道門科略, Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Thụ Độ Nghi 太上洞玄靈寶授度儀, Động Huyền Linh Bảo Trai Thuyết Quang Chúc Giới Phạt Đăng Chúc Cảm Nghi 洞玄靈寶齋說光燭戒罰燈祝感儀, v.v… Nhưng cống hiến quan trọng của ông cho Đạo giáo là cuộc cải cách Thiên Sư Đạo. Trong Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược, ông đề cập trước tiên việc chỉnh đốn Đạo giáo, bao quát nội dung sau:-
- Chỉnh đốn tổ chức, kiện toàn chế độ Tam hội nhật 三會日 (tức là tập thể thực hành ba ngày trai giới: mồng 5 tháng giêng, mồng 7 tháng 7, và mồng 5 tháng 10).
- Chỉnh đốn việc quản lý tín đồ qua chế độ «trạch lục» 宅錄 tức là đăng ký số lượng nhân khẩu trong hộ tín đồ. Trong những ngày Tam hội nhật, tín đồ phải đến sư trị 師治 (trụ sở quản lý của trị) để khai báo số nhân khẩu còn hay mất trong hộ.
- Cùng lúc tề tựu ở sư trị vào ngày Tam hội nhật để thực hiện việc trạch lục, tín đồ được nghe thuyết giảng giáo lý, các giới cấm, khảo sát kiểm điểm công đức. Các tế tửu viết tên tín đồ vào sớ để khải báo Thiên Tào, cầu xin chư thần ban ơn và hộ trì gia đình tín đồ được an ninh, cầu xin nhương tai giải nạn, v.v…
- Lục Tu Tĩnh hết sức coi trọng việc trai giới. Ông tổng kết các nghi thức trai giới đã có và qui định thêm hệ thống trai tiêu gọi là «cửu trai thập nhị pháp» 九齋十二法. Các nghi thức trai tiêu này chịu ảnh hưởng lễ pháp của Nho giáo và tư tưởng «tam nghiệp thanh tịnh» 三業清淨 của Phật giáo.
- Bên cạnh việc hệ thống nghi thức trai tiêu, Lục Tu Tĩnh còn tiến hành chỉnh lý hệ thống kinh điển Đạo giáo và phân loại chúng. Ông được kính trọng như một học giả uyên bác của Đạo giáo, đã chỉnh lý, khảo chứng và lập mục lục cho kinh điển của Linh Bảo phái, của Thượng Thanh phái, hệ thống các phương thuốc của Đạo giáo, bùa chú, v.v… (tổng cộng 1128 quyển). Từ đời Tùy đời Đường về sau, những trứ tác và tổng mục do ông lập trở thành cơ sở để sưu tập Đạo Tạng.
3.3.3. Hệ thống truyền thừa
Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo. Hệ thống truyền thừa như sau:
- Đời thứ nhất: Tổ Thiên Sư 祖天師 Trương Đạo Lăng 張道陵 (34-156), sáng lập Ngũ Đấu Mễ Đạo, tự là Phụ Hán 輔漢. Đời Nguyên, năm Nguyên Trinh 元貞 nguyên niên (1295) vua Thành Tông 成宗 ban hiệu là Chính Nhất Xung Huyền Thần Hoá Tĩnh Ứng Hiển Hựu Chân Quân 正一沖玄神化靜應顯佑真君.
- Đời 2: Tự Sư 嗣師 Trương Hành 張衡 (?-179), tự là Linh Chân 靈真, con của Trương Đạo Lăng. Đời Nguyên, năm Chí Đại 至大 nguyên niên (1308) vua Vũ Tông 武宗 phong hiệu là Chính Nhất Tự Sư Thái Thanh Diễn Giáo Diệu Đạo Chân Quân 正一嗣師太清演教妙道真君.
- Đời 3: Hệ Sư 系師 Trương Lỗ 張魯 (?-216), tự là Công Kỳ 公祺, con cả của Trương Hành. Nguyên Thành Tông 元成宗 ban hiệu là Chính Nhất Hệ Sư Thái Thanh Chiêu Hoá Quảng Đức Chân Quân 正一系師太清昭化廣德真君.
- Đời 4: Thiên Sư Trương Thịnh 張盛 (?-?), tự là Nguyên Tông 元宗, con thứ 4 của Trương Lỗ. Nguyên Thuận Đế 元順帝, năm Chí Chính 至正 nguyên niên (1341) ban hiệu là Thanh Vi Hiển Giáo Hoằng Đức Chân Quân 清微顯教弘德真君.
- Đời 5: Thiên Sư Trương Chiêu Thành 張昭成 (?-?), tự là Đạo Dung 道融, con cả của Trương Thịnh. Năm Chí Chính 13 (tức 1353) đời Nguyên, vua Thuận Đế ban hiệu là Thanh Vi Quảng Giáo Hoằng Đạo Chân 清微廣教弘道真君.
- Đời 6: Thiên Sư Trương Tiêu 張椒 (?-?), tự là Đức Hinh 德馨, con cả của Trương Chiêu Thành. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên, được vua ban hiệu là Thanh Vi Hoằng Giáo Huyền Diệu Chân Quân 清微弘教玄妙真君.
- Đời 7: Trương Hồi 張回 (?-?), tự là Trọng Xương 仲昌. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu là Ngọc Thanh Phụ Giáo Hoằng Tế Chân Quân 玉清輔教弘濟真君.
- Đời 8: Trương Hồi 張迴 (?-?), tự là Ngạn Siêu 彥超. Thái Tổ (Thác Bạt Khuê 拓跋珪, tại vị 386-409) của Bắc Ngụy thường vời vào cung để hỏi đạo. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Ngọc Thanh Ứng Hoá Xung Tĩnh Chân Quân 玉清應化沖靜真君.
- Đời 9: Trương Phù 張符 (?-?), tự là Đức Tín 德信. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Ngọc Thanh Tán Hoá Sùng Diệu Chân Quân 玉清贊化崇妙真君.
- Đời 10: Trương Tử Tường 張子祥 (?-?), tự là Lân Bá 麟伯. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thượng Thanh Huyền Diệu Đại Hư Chân Quân 上清玄妙大虛真君.
- Đời 11: Trương Thông Huyền 張通玄 (?-?), tự là Trọng Đạt 仲達. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thượng Thanh Huyền Ứng Xung Hoà Chân Quân 上清玄應沖和真君.
- Đời 12: Trương Hằng 張恆 (?-?), tự là Đức Nhuận 德潤. Đường Cao Tông 唐高宗 (tại vị 650-683) thường vời ông vào cung để hỏi han đạo trị quốc an dân. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thượng Thanh Huyền Đức Thái Hoà Chân Quân 上清玄德太和真君.
- Đời 13: Trương Quang 張光 (?-?), tự là Đức Thiệu 德紹. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Huyền Chí Đức Quảng Diệu Chân Quân 太玄至德廣妙真君.
- Đời 14: Trương Từ Chính 張慈正 (?-?), tự là Tử Minh 子明. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Huyền Thượng Đức Tử Hư Chân Quân 太玄上德紫虛真君.
- Đời 15: Trương Cao 張高 (?-?), tự là Sĩ Long 士龍. Đời Đường, vua Huyền Tông 玄宗 (tại vị 712-756) thường triều kiến, và vua Túc Tông 肅宗 (tại vị 756-762) rất trọng đãi. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Huyền Sùng Đức Huyền Hoá Chân Quân 太玄崇德玄化真君.
- Đời 16: Trương Ứng Thiều 張應韶 (?-?), tự là Trị Phượng 治鳳. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Động Hư Diễn Đạo Xung Tố Chân Quân 洞虛演道沖素真君.
- Đời 17: Trương Thuận 張順 (?-?), tự là Trung Phù 中孚. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Động Hư Xiển Giáo Phù Hựu Chân Quân 洞虛闡教孚佑真君.
- Đời 18: Trương Sĩ Nguyên 張士元 (?-?), tự là Trọng Lương 仲良. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Động Hư Minh Đạo Tán vận Chân Quân 洞虛明道贊運真君.
- Đời 19: Trương Tu 張脩 (?-?), tự là Đức Chân 德真. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Xung Huyền Dực Hoá Chiêu Khánh Chân Quân 沖玄翊化昭慶真君.
– Đời 20: Trương Kham 張諶 (?-?), tự là Tử Kiên 子堅. Đường Vũ Tông 武宗 (tại vị 841-860) và Đường Ý Tông 懿宗 (tại vị 860-874) trọng đãi. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Xung Huyền Động Chân Phù Đức Chân Quân 沖玄洞真孚德真君.
– Đời 21: Trương Bỉnh Nhất 張秉一 (?-?), tự là Ôn Phủ 溫甫. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thủ Huyền Tử Cực Chiêu Hoá Chân Quân 守玄紫極昭化真君.
– Đời 22: Trương Thiện 張善 (?-?), tự là Nguyên Trường 元長. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thanh Hư Sùng Ứng Phù Huệ Chân Quân 清虛崇應孚惠真君.
– Đời 23: Trương Quý Văn 張季文 (?-?), tự là Trọng Khuê 仲珪. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thanh Hư Diệu Đạo Phụ Quốc Chân Quân 清虛妙道輔國真君.
– Đời 24: Trương Chính Tuỳ 張正隋 (?-?), tự là Bảo Thần 寶神. Tống Chân Tông 真宗 năm 1016 mời vào cung và lập Thụ lục viện 授籙院 và ban hiệu là Chân Tĩnh tiên sinh 真靜先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thanh Hư Quảng Giáo Diệu Tế Chân Quân 清虛廣教妙濟真君.
– Đời 25: Trương Càn Diệu 張乾曜 (?-?), tự là Nguyên Quang 元光. Tống Nhân Tông 仁宗 (tại vị 1023-1063) năm 1030 mời vào cung hỏi đạo và ban hiệu Trừng Tố tiên sinh 澄素先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Huyền Phổ Tế Trạm Tịch Chân Quân 崇玄普濟湛寂真君.
– Đời 26: Trương Tự Tông 張嗣宗 (?-?), tự là Vinh Tổ 榮祖. Tống Nhân Tông năm 1055 mời vào ông cung lập đàn cầu đảo, và ban cho hiệu Xung Tĩnh tiên sinh 沖靜先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Chân Phổ Hoá Diệu Ngộ Chân Quân 崇真普化妙悟真君.
– Đời 27: Trương Tượng Trung 張象中 (?-?), tự là Củng Thần 拱宸. Tống Nhân Tông thường mời vào cung hỏi đạo và trọng đãi. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Chân Thông Huệ Tử Huyền Chân Quân 崇真通惠紫玄真君.
– Đời 28: Trương Đôn Phục 張敦復 (?-?), tự là Diên Chi 延之. Tống Thần Tông 神宗 những năm Hi Ninh 熙寧 (1068-1077) thường mời ông vào cung lập đàn, và ban tặng hiệu Bảo Quang tiên sinh 葆光先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Cực Vô Vi Diễn Đạo Chân Quân 太極無為演道真君.
– Đời 29: Trương Cảnh Đoan 張景端 (?-?), tự là Tử Nhân 子仁. năm 1108, Tống Huy Tông 徽宗 (tại vị 1101-1125) ban hiệu Bảo Chân tiên sinh 葆真先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thái Cực Thanh Hư Từ Diệu Chân Quân 太極清虛慈妙真君.
– Đời 30: Trương Kế Tiên 張繼先 (1092-1128), tự là Gia Văn 嘉聞. Tống Huy Tông nhiều lần mời vào cung hỏi thuật luyện đan, ban hiệu Hư Tĩnh tiên sinh 虛靖先生. Nguyên Vũ Tông 武宗 (tại vị 1308-1311) ban hiệu Hư Tĩnh Huyền Thông Hoằng Ngộ Chân Quân 虛靖玄通弘悟真君.
– Đời 31: Trương Thời Tu 張時脩 (?-?), tự là Triêu Anh 朝英. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Chính Nhất Hoằng Hoá Minh Ngộ Chân Quân 正一弘化明悟真君.
– Đời 32: Trương Thủ Chân 張守真 (?-?), tự là Tuân Nhất 遵一. Tống Cao Tông 高宗 (tại vị 1127-1162) thường mời vào cung giảng đạo. Tống Hiếu Tông 孝宗 (tại vị 1163-1189) mời vào cung thiết đàn và ban hiệu Chính Ứng tiên sinh 正應先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Hư Quang Diệu Chính Ứng Chân Quân 崇虛光妙正應真君.
– Đời 33: Trương Cảnh Uyên 張景淵 (?-1190), tự là Đức Oanh 德瑩. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Chân Thái Tố Xung Đạo Chân Quân 崇真太素沖道真君. Năm 1173, Trương Cảnh Uyên nhận em út Trương Tự Tiên 張嗣先 (1171-?) làm con. Khi Cảnh Uyên mất, Tự Tiên 19 tuổi tạm nắm quyền (gọi là Nhiếp Thiên Sư 攝天師) trong 11 năm thì trao ấn kiếm lại cho cháu là Trương Khánh Tiên 張慶先.
– Đời 34: Trương Khánh Tiên 張慶先 (?-1209), tự là Thiệu Tổ 紹祖, là con của Trương Cảnh Uyên. Đời Tống Ninh Tông 寧宗 năm 1201, Trương Khánh Tiên nhận ấn kiếm từ Nhiếp Thiên Sư. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Sùng Hư Chân Diệu Quang Hoá Chân Quân 崇虛真妙光化真君.
– Đời 35: Trương Khả Đại 張可大 (1217-1263), tự là Tử Hiền 子賢. Trương Khánh Tiên mất sớm, con là Trương Thành Đại 張成大 còn nhỏ, nên cha của Trương Khả Đại là Trương Thiên Lân 張天麟 (tức Nhân Tĩnh tiên sinh 仁靜先生) tạm chưởng giáo. Nhưng Thành Đại chết yểu và Thiên Lân cũng qua đời (1230) nên Trương Khả Đại được xem là truyền nhân của Trương Khánh Tiên. Tống Lý Tông 理宗 năm 1236 mời Trương Khả Đại vào cung để xem xét việc trùng san Đạo Tạng. Năm 1239, Tống Lý Tông ban cho hiệu Quán Diệu tiên sinh 觀妙先生. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên được vua ban hiệu Thông Huyền Ứng Hoá Quán Diệu Chân Quân 通玄應化觀妙真君.
– Đời 36: Trương Tông Diễn 張宗演 (khoảng 1244-1291), tự là Thế Truyền 世傳. Nguyên Thế Tổ 世祖 (Hốt Tất Liệt 忽必烈, tại vị 1260-1294) nhiều lần mời ông vào cung thiết đàn, ban cho ấn triện bằng bạc thuộc hàng nhị phẩm, thống lĩnh Đạo giáo ở Giang Nam. Nguyên Thành Tông 成宗 (tại vị 1295-1307) ban hiệu Diễn Đạo Linh Ứng Xung Hoà Huyền Tĩnh Chân Quân 演道靈應沖和玄靜真君.
– Đời 37: Trương Dữ Đệ 張與棣 (?-1294), tự là Quốc Hoa 國華, là con cả của Trương Tông Diễn. Nguyên Thế Tổ thường mời vào cung và ban hiệu Thể Huyền Hoằng Đạo Quảng Giáo Chân Nhân 體玄弘道廣教真人.
– Đời 38: Trương Dữ Tài 張與材 (?-1316), tự là Quốc Lương 國梁, là con thứ của Trương Tông Diễn. Nguyên Thành Tông 成宗 năm 1296 ban cho ông hiệu Thái Tố Ngưng Thần Quảng Đạo Chân Nhân 太素凝神廣道真人 và ban cho mẹ của ông (Chu thị 周氏) hiệu Huyền Chân Diệu Ứng tiên cô 玄真妙應仙姑. Nguyên Vũ Tông lên ngôi (1308), ban cho ông chức Kim Tử Quang Lộc Đại Phu 金紫光祿大夫, phong làm Lưu Quốc Công 留國公, ban cho ấn triện bằng vàng hàng nhất phẩm, và ban hiệu Thái Tố Ngưng Thần Quảng Đạo Minh Đức Đại Chân Nhân 太素凝神廣道明德大真人.
– Đời 39: Trương Tự Thành 張嗣成 (?-1344), tự là Thứ Vọng 次望. Nguyên Nhân Tông 仁宗 năm 1317 ban hiệu Thái Huyền Phụ Hoá Thể Nhân Ứng Đạo Đại Chân Nhân 太玄輔化體仁應道大真人 và ban cho mẹ ông (Dịch thị) hiệu Diệu Minh Huệ Ứng Thường Tĩnh Chân Nhân 妙明慧應常靜真人. Minh Thái Tổ 太祖 năm 1370 ban hiệu Thái Huyền Hoằng Hoá Minh Thành Sùng Đạo Đại Chân Nhân 太玄弘化明誠崇道大真人.
– Đời 40: Trương Tự Đức 張嗣德 (?-1352), tự là Thái Ất 太乙, là em của Trương Tự Thành. Nguyên Thuận Đế ban hiệu Thái Ất Minh Giáo Quảng Huyền Thể Đạo Đại Chân Nhân 太乙明教廣玄體道大真人.
– Đời 41: Trương Chính Ngôn 張正言 (?-1359), tự là Đông Hoa 東華, là con cả của Trương Tự Đức. Nguyên Thuận Đế ban hiệu Minh Thành Ngưng Đạo Hoằng Văn Quảng Giáo Đại Chân Nhân 明誠凝道弘文廣教大真人, chưởng quản Đạo giáo ở Giang Nam.
– Đời 42: Trương Chính Thường 張正常 (?-1378), tự là Trọng Kỷ 仲紀, là con của Trương Tự Thành. Minh Thái Tổ năm 1368 ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Hộ Quốc Xiển Tổ Thông Thành Sùng Đạo Hoằng Đức Đại Chân Nhân 正一嗣教護國闡祖通誠崇道弘德大真人.
– Đời 43: Trương Vũ Sơ 張宇初 (?-1410), tự là Tử Tuyền 子璿. Minh Thái Tổ năm 1380 ban cho ông hiệu Chính Nhất Tự Giáo Đạo Hợp Vô Vi Xiển Tổ Quang Phạm Đại Chân Nhân 正一嗣教道合無為闡祖光范大 真人và ban cho mẹ ông (Bao thị 包氏) hiệu Thanh Hư Xung Tố Diệu Thiện Huyền Quân 清虛沖素妙善玄君.
– Đời 44: Trương Vũ Thanh 張宇清 (?-1427), tự là Ngạn Ky 彥璣, em của Trương Vũ Sơ, kế vị năm 1410. Minh Thành Tổ 成祖 vời vào cung ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Thanh Hư Xung Tố Quang Tổ Diễn Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教清虛沖素光祖演道大真人 và năm 1419 phong cho vợ của ông (Tôn thị 孫氏) là Đoan Tĩnh Trinh Thục Diệu Huệ Huyền Quân 端靜貞淑妙惠玄君. Minh Nhân Tông 仁宗 lên ngôi (1425) phong ông là Chính Nhất Tự Giáo Thanh Hư Xung Tố Quang Tổ Diễn Đạo Sùng Khiêm Thủ Tĩnh Động Huyền Đại Chân Nhân 正一嗣教清虛沖素光祖演道崇謙守靜洞玄大真人.
– Đời 45: Trương Mậu Thừa 張懋丞 (1387-1444), tự là Văn Khai 文開. Minh Tuyên Tông 宣宗 năm 1429 ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Sùng Tu Chí Đạo Bao Tố Diễn Pháp Chân Nhân 正一嗣教崇修至道葆素演法真人 và năm 1430 phong cho vợ của ông (Tôn thị 孫氏) là Nhu Huệ Chân Tĩnh Huyền Quân 柔惠真靜玄君. Minh Anh Tông 英宗 phong cho vợ kế của ông (Đổng thị 董氏) là Ôn Tĩnh Nhu Thuận Huyền Quân 溫靜柔順玄君.
– Đời 46: Trương Nguyên Cát 張元吉 (1435-?), tự là Mạnh Dương 孟陽, là cháu của Trương Mậu Thừa. Năm 1445, Minh Anh Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Xung Hư Thủ Tố Thiệu Tổ Sùng Pháp Chân Nhân 正一嗣教沖虛守素紹祖崇法真人 và năm 1446 phong cho cha ông (Trương Lưu Cương 張留綱) là Chính Nhất Tự Giáo Sùng Huyền Dưỡng Tố Tịch Tĩnh Chân Nhân 正一嗣教崇玄養素寂靜真人, phong cho mẹ ông (Cao thị 高氏) là Từ Huệ Tĩnh Thục Huyền Quân 慈惠靜淑玄君. Năm 1467, Minh Hiến Tông 憲宗 gia phong cho ông là Chính Nhất Tự Giáo Thể Huyền Sùng Mặc Ngộ Pháp Thông Chân Xiển Đạo Hoằng Hoá Phụ Đức Hựu Thánh Diệu Ứng Đại Chân Nhân 正一嗣教體玄崇默悟法通真闡道弘化輔德佑聖妙應大真人.
– Đời 47: Trương Huyền Khánh 張玄慶 (?-1509), tự là Thiên Tích 天錫, là em họ của Trương Nguyên Cát. Minh Hiến Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Bảo Hoà Dưỡng Tố Kế Tổ Thủ Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教葆和養素繼祖守道大真人 và phong cho mẹ ông (Ngô thị) là Chí Thuận Thục Tĩnh Huyền Quân 志順淑靜玄君.
– Đời 48: Trương Ngạn Phiến 張諺頨 (1490-1550), tự là Sĩ Chiêm 士瞻, là con của Trương Huyền Khánh. Năm 1501, Minh Hiếu Tông 孝宗 ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân 正一嗣教致虛沖靜承先弘化大真人. Năm 1526, Minh Thế Tông gia phong là Chính Nhất Tự Giáo Hoài Huyền Bão Chân Dưỡng Tố Thủ Mặc Bảo Quang Lý Hoà Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân 正一嗣教懷玄抱真養素守默葆光履和致虛沖靜承先弘化大真人.
– Đời 49: Trương Vĩnh Tự 張永緒 (?-1565), tự là Doãn Thừa 允承, là con của Trương Ngạn Phiến. Năm 1549, Minh Thế Tông phong là Chính Nhất Tự Giáo Thủ Huyền Dưỡng Tố Tuân Phạm Sùng Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教守玄養素遵范崇道大真人.
– Đời 50: Trương Quốc Tường 張國祥 (?-1611), tự là Văn Chinh 文征, là con của Trương Vĩnh Tự, được ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Ngưng Thành Chí Đạo Xiển Huyền Hoằng Giáo Đại Chân Nhân 正一嗣教凝誠志道闡玄弘教大真人. Năm 1607, ông vâng sắc chỉ của Minh Thần Tông hiệu chính Tục Đạo Tạng.
– Đời 51: Trương Hiển Tổ 張顯祖 (?-?), tự là Cửu Công 九功, là con của Trương Quốc Tường. Minh Thần Tông sắc chỉ bảo đổi tên Hiển Tổ thành Hiển Dung 顯庸. Ông mất năm 81 tuổi, được ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Quang Dương Tổ Phạm Xung Hoà Thanh Tố Đại Chân Nhân 正一嗣教光揚祖范沖和清素大真人.
– Đời 52: Trương Ứng Kinh 張應京 (?-1651), tự là Dực Thần 翊宸, chưởng giáo năm 1636. Đời Thanh, năm Khang Hi 42 (1703), vua Thánh Tổ phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.
– Đời 53: Trương Hồng Nhậm 張洪任 (1624-1667), tự là Hán Cơ 漢基, là con thứ của Trương Ứng Kinh, chưởng giáo năm 1651. Năm Khang Hi 42, vua Thánh Tổ phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.
– Đời 54: Trương Kế Tông 張繼宗 (1666-1715), tự là Thiện Thuật 善述, là con Trương Hồng Nhậm. Khi 8 tháng tuổi cha mất, chú là Trương Hồng Hài 張洪偕 tạm thời chưởng giáo đến khi Kế Tông lên 14 tuổi mới trao lại ấn kiếm. Năm Khang Hi 42, vua Thánh Tổ phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.
– Đời 55: Trương Tích Lân 張錫麟 (?-1727), tự là Nhân Chỉ 仁祉. Đời Thanh, Thế Tông lên ngôi, phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.
– Đời 56: Trương Ngộ Long 張遇隆 (?-?), tự là Phụ Thiên 輔天, còn bé thì cha là Trương Tích Lân mất, hai chú là Trương Khánh Lân 張慶麟 và Trương Chiêu Lân 張昭麟 tạm nắm quyền. Năm Càn Long thứ 7 (1742) ông phụng sắc chỉ mà chưởng giáo. Năm 1771, ông được phong là Thông Nghị đại phu 通議大夫.
– Đời 57: Trương Tồn Nghĩa 張存義 (1752-1779), tự là Phương Trực 方直, chưởng giáo năm 1766.
– Đời 58: Trương Khởi Long 張起隆 (?-1798), tự là Thiệu Vũ 紹武. Năm 1780, ông phụng chỉ vua mà chưởng giáo.
– Đời 59: Trương Ngọc 張鈺 (?-?), tự là Bội Tương 佩相, là con thứ của Trương Khởi Long, chưởng giáo năm 1800. Năm Quang Tự 30 (1904), vua Đức Tông phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.
– Đời 60: Trương Bồi Nguyên 張培源 (?-1859), tự là Dục Thành 育成, chưởng giáo năm 1829. Năm Quang Tự 30, vua Đức Tông phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.
– Đời 61: Trương Nhân Trinh 張仁晸 (?-?), tự là Bính Tường 炳祥, chưởng giáo năm 1862, mất năm 63 tuổi. Năm Quang Tự 30, vua Đức Tông phong là Quang Lộc đại phu 光祿大夫.
– Đời 62: Trương Nguyên Húc 張元旭 (?-1824), tự là Hiểu Sơ 曉初, chưởng giáo năm 1904. Đầu năm Dân Quốc việc phong hiệu bị phế bỏ. Khi Viên Thế Khải xưng đế, lại phong cho ông là Chính Nhất Tự Giáo Đại Chân Nhân 正一嗣教大真人.
– Đời 63: Trương Ân Phổ 張恩溥 (1904-1969), tự là Hạc Cầm 鶴琴, là con của Trương Nguyên Húc, chưởng giáo năm 1924. Năm 1949 ông di cư sang Đài Loan, và năm 1950 sáng lập Đạo giáo hội 道教會 của Đài Loan. năm 1957 ông thiết lập Đạo giáo cư sĩ hội 道教居士會 và Đạo giáo đại pháp sư hội 道教大法師會. Năm 1969 ông liễu đạo tại Đài Bắc. Sau đó cháu họ của ông là Trương Nguyên Tiên 張淵先 lên kế vị.
– Đời 64: Trương Nguyên Tiên 张源先(1931-2008), là cháu của Trương Ân Phổ. Sau khi Trương Ân Phổ qua đời, lúc này Trương Nguyên Tiên đang là trung uý lục quân trong quân đội Đài Loan phải xuất ngũ về kế thừa giáo thống, năm 1971 chính thức kế thừa chức vị Thiên sư. Năm 2008, ông cưỡi hạc quy tiên, hưởng thọ 76 tuổi, xong chỉ có con gái không có con trai. Chính nhất thiên sư quy định chỉ truyền cho nam không truyền cho nữ dẫn đến việc kế vị bị khuyết nên xảy ra tranh chấp ngôi vị thiên sư.