Thứ năm, 02/01/01,2025 13:05 UTC +7
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ   Hiệp hội nghiên cứu Đạo giáo Việt Nam
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ Hiệp hội nghiên cứu Đạo giáo Việt Nam
TAOISM RESEARCH ASSOCIATION OF VIETNAM
Quay lại trang chủ

Tham Ngộ 《Thanh Tịnh Kinh》để hiểu rõ pháp môn tu Đạo !

     

        Thuật pháp tu hành của Đạo giáo bao la bát ngát, rất nhiều người mới học đạo khi đối mặt với những phương pháp tu chứng khác nhau, thường sẽ cảm thấy hoang mang, không biết nên bắt đầu học từ đâu, càng không biết rốt cuộc phương pháp nào mới phù hợp với mình. Kỳ thực, chỉ cần công phu thâm hậu, ai ai cũng có thể nắm vững được một số phương pháp phương thuật nhất định. Nhưng đằng sau thuật pháp, tâm pháp tu hành của Đạo giáo lại càng huyền diệu hơn.

        Tâm pháp Đạo giáo lấy thanh tịnh làm gốc, tu tâm luyện tính là một môn công phu vô vi, càng muốn đạt được thanh tịnh, lại càng dễ sinh ra tam độc ngũ khổ. Đạo Tổ giảng “vô vi”, rốt cuộc làm sao để trong hữu vi mà thấy được cái diệu của vô vi, thật sự làm khó không ít người học đạo. Mà kỳ thực, tâm pháp căn bản nhất của Đạo giáo nằm ngay trong kinh điển mà chúng ta thường ngày tụng đọc. 《Thanh Tịnh Kinh》, được cho là kinh tu hành số một của Đạo giáo, chỉ bằng mấy trăm chữ ngắn ngủi đã chỉ ra phương hướng cho người tu đạo.

        Trong Đạo giáo có Tam Bảo là Đạo, Kinh, Sư, tất cả những điều huyền diệu của tu đạo đều có thể tìm thấy lời giải đáp trong Tam Bảo. Trong đó, Kinh Bảo với lối chữ Phượng Triện Long Chương nổi tiếng, thì mang ý nghĩa “văn dĩ tải đạo” (lấy văn chương để chở đạo). Những điều ghi chép trong kinh điển Đạo giáo đều là thể ngộ tu tiên chứng đạo của các vị tổ sư đời trước, cho nên có rất nhiều lời giải đáp cho những điều nghi hoặc mà đại chúng gặp phải khi học đạo. Trong số kinh điển đồ sộ, 《Thanh Tịnh Kinh》 được xếp vào hàng đầu trong những điển tịch thanh tu của Huyền Môn, hơn nữa còn được đặt ở thiên đầu tiên trong 《Nhật Tụng Tảo Vãn Công Khóa Kinh》, đủ thấy địa vị quan trọng của nó. Nguyên nhân là vì thiên kinh văn ngắn ngủi này đã chỉ rõ mấu chốt của tu chân – “thanh tịnh”.

        《Thanh Tịnh Kinh》, tên đầy đủ là 《Thái Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tịnh Kinh》, toàn bộ bí mật của thiên kinh văn nằm trong chín chữ của tiêu đề này. Chỉ hiểu theo nghĩa bề mặt, có thể biết đây là một thiên kinh điển do Thái Thượng Lão Quân thuyết giảng cho thế nhân nghe. Chủ tể của kinh nằm ở hai chữ “thanh tịnh”, lại vì người tu đạo muốn đạt đến cái diệu của “thường thanh thường tịnh”, cho nên còn nhấn mạnh thêm một chữ “thường”, mang ý nghĩa hằng thường. Thái Thượng Lão Quân muốn nói cho người tu đạo trong thiên hạ biết pháp môn để thực hiện sự thanh tịnh hằng thường, nằm ngay trong kinh này.

        Đạo giáo lấy Tam Thanh làm tín ngưỡng tối cao, người ta thường xem Đức Thánh Thiên Tôn chính là Thái Thượng Lão Quân. Cõi trần mà người và ta đang sống vốn là một thế giới của thanh sắc, tất cả những gì chúng ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, đều là sự tồn tại hữu hình hữu tướng của vật chất. Cực điểm của nhận thức về vật chất thanh sắc, chính là đại diện cho chí đại, chí cao, chí thọ, chí tôn. Quan niệm vũ trụ sinh thành của Đạo giáo cho rằng, vạn vật trên thế gian đều do đạo khí hóa thành, cho nên mới có thuyết “nhất khí hóa tam thanh”. Trong 《Lão Tử Tưởng Nhĩ Chú》 có viết: “Đạo giả, nhất dã. Nhất tán vi khí, tụ vi Thái Thượng Lão Quân.” Thái Thượng Lão Quân này, chính là đối chiếu với đại, cao, thọ, tôn của nhân gian, hơn nữa còn là sự vượt lên trên những danh xưng hữu hình, cho nên lễ bái Thái Thượng, chính là quá trình từ nhận thức hữu hình mà lĩnh ngộ đại đạo hư không. Nói cách khác, nếu con người có thể tinh tấn thêm một tầng nữa đối với sự chấp trước vào vạn tượng thế gian, mà đi tham ngộ cái chân không đằng sau vạn vật là gì, thì tự nhiên cũng sẽ ngộ ra đạo quả.

        Chúng ta sinh ra làm người, hoặc chủ động, hoặc bị động mà phát sinh muôn vàn mối liên hệ với thế gian, nếu định tính không đủ, sẽ bị vật dục bên ngoài lôi kéo. Trang Tử gọi đó là “vật hóa”, ý nói tình chí của con người bị ngoại vật đồng hóa, từ đó mất đi sự cảm nhận đối với tự nhiên chi đạo của bản thân. Như vậy thì làm sao có thể cầu được sự hằng thường trong thanh tịnh?

        Dựa trên điều này, 《Thanh Tịnh Kinh》 tập trung luận thuật về những cảnh giới khác nhau trong việc con người cầu đạo hằng thường. Khởi đầu kinh văn nói về việc đại đạo sinh hóa ra trời đất vạn vật, cho con người biết tất cả những gì hữu hình hữu tướng trên thế gian đều là do đạo khí hóa thành, giữa những sự vật khác nhau mà người chấp trước theo đuổi không hề có sự khác biệt về bản chất. Vạn vật trên thế gian có âm có dương, có thanh có trọc, chính dưới sự chuyển hóa lẫn nhau của âm dương mà vạn vật mới được sinh ra, sinh trưởng. Con người khó mà thanh tịnh thân tâm, là bởi vì nội tâm luôn bị dục vọng lôi kéo, chỉ biết hướng ngoại mà phóng thích tình chí của mình (đây là biểu hiện thuộc về dương), lại không biết thu liễm nội tâm (đây là biểu hiện thuộc về âm), cho nên sẽ dẫn đến kết quả âm dương mất cân bằng, thanh trọc phân chia. Một khi đã đi ngược lại với chân tướng vận hành của đại đạo, thì cái gọi là tu hành cũng mất đi ý nghĩa.

        Xét thấy thế nhân thường hay chìm đắm trong dục vọng và cám dỗ, 《Thanh Tịnh Kinh》 liền đưa ra một cảnh giới tiệm tiến cho việc con người cầu thanh tịnh:

Trước tiên, phải biết tâm thần của con người vốn ưa thanh tịnh, tu hành nhất định phải bỏ ra công phu lắng lòng diệt dục.

        Trong kinh văn viết: “Nhân thần hảo thanh, nhi tâm nhiễu chi; nhân tâm hảo tịnh, nhi dục khiên chi. Thường năng khiển kỳ dục, nhi tâm tự tịnh, trừng kỳ tâm, nhi thần tự thanh.” Lời này đã nói rõ ràng nguyên nhân khiến con người không đạt được thanh tịnh, suy ngược lại, muốn cầu được chân thanh tịnh, thì phải “nghịch tắc thành tiên”, đi ngược lại mà hành động.

        Đã biết do bị dục vọng vật hóa lôi kéo mà mất đi thanh tịnh, vậy thì điều quan trọng trước tiên là phải dứt bỏ cám dỗ của ngoại dục, từ đó làm trong sạch nội tâm của mình. Một trong một ngoài, đây cũng là xuất phát từ hai phương diện âm dương. Chỉ đơn thuần nhấn mạnh ngoại dục, sẽ khiến con người thoát ly khỏi trần tục. Trốn tránh ở một nơi hẻo lánh cũng không thể đổi lấy sự an nhiên trong tâm tính, nếu trong lòng không có tạp niệm, thì ngoại vật làm sao có thể tổn hại ta dù chỉ một chút? Cũng như câu nói nổi tiếng của Đông Pha cư sĩ: “Bát phong xuy bất động, hiện xuất tử kim liên.” Cờ động hay gió động kỳ thực đều không quan trọng, chỉ có tâm của người xem động, mới khiến thế giới nhìn thấy trong mắt có gợn sóng.

Tiếp theo, chủ động lắng lòng gột rửa là thuộc về hữu vi pháp, đồng thời, cũng nên nhận thức rằng ý niệm diệt dục cũng là một loại dục vọng.

        《Thanh Tịnh Kinh》 còn yêu cầu con người phải quán chiếu nội tâm, quán chiếu ngoại hình, quán chiếu ngoại vật, thông qua việc thấu hiểu ba điều này, có thể chứng ngộ đạo lý hữu vô tương sinh. Chỉ có từ “hữu” mới có thể chứng “vô”, từ thế giới ngũ sắc mới có thể lĩnh hội được cảnh giới chân không. Bởi vậy, muốn cầu thanh tịnh, không phải là từ bỏ cõi hồng trần, mà là trong bụi trần mà rèn luyện tâm, trong vạn vật mà xem xét lại vạn vật chi đạo. Dựa trên điều này, mới có thể hiểu được thanh tịnh mà mình cầu vốn dĩ cũng là một hồi hư không. Cầu không, cầu bất không, trong sự biện chứng lẫn nhau có thể ngộ ra đạo lý “không vô sở không”.

        Trong kinh yêu cầu quán chiếu tâm, hình, vật ba điều, kỳ thực là từ tất cả những gì hữu tướng mà nhìn thấu sự thường tịch trong tâm. Đại thanh tịnh chân chính, nằm ở việc không vì sự thay đổi của ngoại vật mà lay động chân thường trong nội tâm. Trong kinh lại nói “chân thường ứng vật”, ý chỉ khi đối mặt với bất kỳ tình huống nào cũng có thể giữ vững bản nhiên nhất tính trong tâm. Việc đến, thì thản nhiên đối đãi; việc qua, thì không màng đến việc đi hay ở. Đây chính là cái gọi là “thường ứng thường tịnh”. Chỉ có dùng tâm hằng thường bất biến để ứng phó với vạn vật, mới có thể triệt để chứng ngộ sự thanh tịnh hằng thường bất biến của bản thân, đến lúc này có thể gọi là đắc đạo.

        Tuy nhiên, tuy gọi là đắc đạo, nhưng cũng không thể vì vậy mà sinh ra sự phân chia cao thấp. Lão Quân tuy có nói “thượng sĩ vô tranh, hạ sĩ hảo tranh; thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức”, nhưng không hề đặt thượng sĩ và hạ sĩ, thượng đức và hạ đức vào thế đối lập không dung thứ lẫn nhau. Ngược lại, mỗi người ở những giai đoạn khác nhau của tu chân ngộ đạo đều sẽ sinh ra những cảm ngộ khác nhau, chấp trước vào bất kỳ một loại đạo quả nào cũng đều là trúng độc của dục vọng.

        Tóm lại, 《Thanh Tịnh Kinh》 không chỉ giảng thuật cho đại chúng về cái diệu của thanh tịnh, mà còn tập trung luận giải về những bước để đạt được thanh tịnh, cũng như làm sao để đạt được đạo quả “thường ứng thường tịnh”. Ba tầng lớp tiệm tiến này, chính là sự tham hóa từ hữu vi sang vô vi. Soi rọi lại bản thân sự tu hành, không chấp trước vào vạn vật, không sinh lòng tham cầu, không khởi vọng tưởng, không ngại niệm có hay không, giữ vững được tâm hằng thường, là có thể giữ vững được đại đạo thanh tịnh hằng thường. Lùi một bước mà nói, tuy rằng chúng ta vẫn đang luân hồi chìm nổi trong sông mê sinh tử, nhưng nếu không trải qua sự biện chứng về hữu vô, không sắc, chấp trước và buông bỏ, thì làm sao có thể ngộ ra được yếu nghĩa hư vô của đại đạo !

太 上 老 君 说 常 清 静 经
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN THUYẾT THƯỜNG THANH TĨNH KINH
老 君 曰:
Lão quân viết。
大 道 无 形,生 育 天 地。
Đại đạo vô hình。Sinh dục thiên địa。
大 道 无 情,运行 日 月。
Đại đạo vô tình。Vận hành nhật nguyệt。
大 道 无 名,长 养 万 物。
Đại đạo vô danh。Trưởng dưỡng vạn vật。
吾 不 知 其 名,强 名 曰 道。
Ngô bất tri kỳ danh。Cường danh viết Đạo。
夫 道 者,有 清 有 浊,有 动 有 静,
Phu đạo giả。Hữu thanh hữu trọc。Hữu động hữu tĩnh
天清 地 浊 ,天 动 地 静。
Thiên thanh địa trọc。Thiên động địa tĩnh。
男 清 女 浊,男 动 女 静。
Nam thanh nữ trọc。Nam động nữ tĩnh。
降本 流 末,而 生 万 物。
Giáng bản lưu mạt。Nhi sinh vạn vật。
清 者 浊 之 源,动 者 静 之 基。
Thanh giả trọc chi nguyên。Động giả tĩnh chi cơ。
人 能 常 清 静,天 地 悉 皆 归。
Nhân năng thường thanh tĩnh。Thiên địa tất giai quy。
夫 人 神 好 清,而 心 扰 之。
Phu nhân thần hảo thanh。Nhi tâm nhiễu chi。
人 心 好 静,而 欲 牵 之。
Nhân tâm hảo tĩnh。Nhi dục khiên chi。
常 能 遣 其 欲,而 心 自 静。
Thường năng khiển kỳ dục。Nhi tâm tự tĩnh。
澄 其 心,而 神 自 清。
Trừng kỳ tâm。Nhi thần tự thanh。
自 然 六 欲 不 生,三 毒 消 灭。
Tự nhiên lục dục bất sinh。Tam độc tiêu diệt。
所 以 不 能 者,为 心 未 澄,欲 未 遣 也。
Sở dĩ bất năng giả。Vy tâm vị trừng。Dục vị khiển dã。
能 遣 之 者,内 观 其 心,心 无 其 心。
Năng khiển chi giả。Nội quan kỳ tâm。Tâm vô kỳ tâm。
外 观 其 形,形 无 其 形。
Ngoại quan kỳ hình。Hình vô kỳ hình。
远 观 其 物,物 无 其 物。
Viễn quan kỳ vật。Vật vô kỳ vật。
三 者 既 悟,惟 见 於 空。
Tam giả ký ngộ。Duy kiến ư không
观 空 亦 空,空 无 所 空。
Quan không diệc không。không vô sở không。
所 空 既 无,无 无 亦 无。
Sở không ký vô。vô vô diệc vô。
无 无 既 无,湛 然 常 寂。
Vô vô ký vô。Trạm nhiên thường tịch。
寂 无 所 寂,欲 岂 能 生。
Tịch vô sở tịch。Dục khởi năng sinh。
欲 既 不 生,即 是 真 静。
Dục ký bất sinh。Tức thị chân tĩnh。
真 常 应 物,真 常 得 性。
Chân thường ứng vật。Chân thường đắc tính。
常 应 常 静,常 清 静 矣。
Thường ứng thường tĩnh。Thường thanh tĩnh hỹ。
如 此 清 静,渐 入 真 道。
Như thử thanh tĩnh。Tiệm nhập chân đạo。
既 入 真 道,名 为 得 道。
Ký nhập chân Đạo。Danh vy đắc đạo。
虽 名 得 道,实 无 所 得。
Tuy danh đắc đạo。Thực vô sở đắc。
为 化 众 生,名 为 得 道。
Vy hoá chúng sinh。Danh vy đắc đạo。
能 悟 之 者,可 传 圣 道。
Năng ngộ chi giả。Khả truyền thánh đạo。
老 君 曰:
Lão quân viết。
上 士 无 争,下 士 好 争。
Thượng sĩ vô tranh。Hạ sĩ hảo tranh。
上 德 不 德,下 德 执 德。
Thượng đức bất đức。Hạ đức chấp đức。
执 著 之 者,不 名 道 德。
Chấp trước chi giả。Bất danh đạo đức。
众 生 所 以 不 得 真 道 者,为 有 妄 心。
Chúng sinh sở dĩ bất đắc chân đạo giả。Vy hữu vọng tâm。
既 有 妄 心,即 惊 其 神。
Ký hữu vọng tâm。Tức kinh kỳ thần。
既 惊 其 神,即 著 万 物。
Ký kinh kỳ thần。Tức trước vạn vật。
即 著 万 物,即 生 贪 求。
Tức trước vạn vật。Tức sinh tham cầu。
既 生 贪 求,即 是 烦 恼。
Ký sinh tham cầu。Tức thị phiền não。
烦 恼 妄 想,忧 苦 身 心。
Phiền não vọng tưởng。Ưu khổ thân tâm。
便 遭 浊 辱,流 浪 生 死。
Tiện tao trọc nhục。Lưu lãng sinh tử。
常 沉 苦 海,永 失 真 道。
Thường trầm khổ hải。Vĩnh thất chân đạo。
真 常 之 道,悟 者 自 得。
Chân thường chi đạo。Ngộ giả tự đắc。
得 悟 道 者,常 清 静 矣 !
Đắc ngộ đạo giả。Thường thanh tĩnh hỹ。
仙 人 葛 公 曰:
Tiên nhân cát công viết。
吾 得 真 道,曾 诵 此 经 万 遍。
Ngô đắc chân đạo。 Tằng tụng thử kinh vạn biến。
此 经 是 天 人 所 习,不 传 下 士。
Thử kinh thị thiên nhân sở tập。 Bất truyền hạ sĩ。
吾 昔 受 之 于 东 华 帝 君,
Ngô tích thụ chi vu đông hoa đế quân。
东 华 帝 君 受 之 于 金 阙 帝 君,
Đông hoa đế quân thụ chi vu kim khuyết đế quân。
金 阙 帝 君 受 之 于 西 王 母。
Kim khuyết đế quân thụ chi vu tây vương mẫu。
西 王 母 皆 口 口 相 传,不 记 文 字。
Tây vương mẫu giai khẩu khẩu tương truyền。Bất ký văn tự。
吾 今 于 世,书 而 录 之。
Ngô kim vu thế。 Thư nhi lục chi。
上 士 悟 之,升 为 天 官。
Thượng sĩ ngộ chi。 Thăng vy thiên quan。
中 士 修 之,南 宫 列 仙。
Trung sĩ tu chi。 Nam cung liệt tiên。
下 士 得 之,在 世 长 年。
Hạ sĩ đắc chi。Tại thế trường niên。
游 行 三 界,升 入 金 门。
Du hành tam giới。 Thăng nhập kim môn。
左 玄 真 人 曰:
Tả huyền chân nhân viết。
学 道 之 士,持 诵 此 经 者,
Học đạo chi sĩ。Trì tụng thử kinh giả。
即 得 十 天 善 神,拥 护 其 身。
Tức đắc thập thiên thiện thần。Ủng hộ kỳ thân。
然 后 玉 符 保 神,金 液 炼 形,
Nhiên hậu ngọc phù bảo thần。Kim dịch luyện hình。
形 神 俱 妙,与 道 合 真。
Hình thần câu diệu。Dữ đạo hợp chân。
正 一 真 人 曰:
Chính nhất chân nhân viết。
人 家 有 此 经,悟 解 之 者,
Nhân gia hữu thử kinh。Ngộ giải chi giả。
灾 障 不 干,众 圣 护 门。
Tai chướng bất can。Chúng thánh hộ môn。
神 升 上 界,朝 拜 高 真。
Thần thăng thượng giới。Triều bái cao chân。
功 满 德 就,相 感 帝 君。
Công mãn đức tựu。Tương cảm đế quân。
诵 持 不 退,身 腾 紫 云。
Tụng trì bất thoái。 Thân đằng tử vân。

Phúc Sinh Vô Lượng Thiên Tôn

Chia sẻ bài viết công đức bất khả tư nghị !

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *