Thứ sáu, 29/03/03,2024 16:02 UTC +7
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ   Hiệp hội nghiên cứu Đạo giáo Việt Nam
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ Hiệp hội nghiên cứu Đạo giáo Việt Nam
TAOISM RESEARCH ASSOCIATION OF VIETNAM
Quay lại trang chủ

BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT NỘI ĐẠO TRÀNG VÙNG QUẢNG XƯƠNG THANH HÓA

Bài 1

BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT NỘI ĐẠO TRÀNG VÙNG QUẢNG XƯƠNG THANH HÓA

Có một hiện tượng tôn giáo – tín ngưỡng độc đáo liên quan đến sự ra đời của dòng Đạo Nội với hiện diện của Đức Phật giáng hạ xuống một vùng đất cụ thể, từ nhiều trăm năm qua, đã được ghi chép vào sử sách và truyền kể qua nhiều thế hệ người dân dọc các xã ven biển vùng Quảng Xương, Thanh Hóa. Xoay quanh một địa dư đích thực là Yên Đông, qua tâm thức của dân gian, đây chính là nơi phát tích của một dòng đạo, khai sinh cho một thứ tôn giáo bản địa có linh thiêng Phật Tổ, có uy lực và sức mạnh kỳ bí của thần linh, đủ sức trấn ngự và khuất phục tâm linh bao đời, không chỉ từ phạm vi một làng, một vùng mà còn lan toả ra nhiều địa phương của đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và khu Bốn cũ. Và, cũng trải qua 4 thế kỷ, Đạo Nội Yên Đông vẫn có sức sinh tồn riêng, vẫn có sức hút tâm linh độc đáo và ẩn chứa không ít vấn đề liên quan đến bản sắc văn hóa đặc thù người Việt, mà, nếu khoa học liên ngành đi sâu giải mã, khơi sáng, chắc chắn sẽ có nhiều ý nghĩa và giá trị tích cực đối với thực tiễn xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại hôm nay. Đứng trước một đối tượng văn hóa – tâm linh có không ít ẩn số phức tạp như vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra là khảo sát khách quan thực trạng nảy sinh và tồn tại của đạo nội Yên Đông qua diễn tiến các chặng hành trình văn hóa vừa chung (phạm vi quốc gia, dân tộc), vừa riêng (phạm vi làng, xã, vùng) để từ đó, khả dĩ nhận diện được bản chất chung / đặc thù của chính loại hình sinh hoạt tôn giáo – tín ngưỡng này, ngõ hầu góp phần vào việc xử lý, định hướng, phát huy và bảo tồn những nét văn hóa tích cực của người Việt trong cuộc sống đương đại và mai sau.

Tư liệu liên quan đến Nội Đạo Tràng được biên soạn vào loại sớm nhất là cuốn: Đại Nam Lê triều Thanh Hóa Nội Đạo Tràng tam thánh bảo lục được soạn năm 1660, trung san năm 1807, không rõ tác giả(?). Hiện có hai bản chép tay mang ký hiệu A1316, dày 284 trang và A926, dày 404 trang lưu tại thư viện Viện Hán Nôm ở Hà Nội. Cũng ở thư viện này còn cuốn Nội Đạo Tràng liệt thánh bảo lục do Nguyễn Tảo, tự Pháp Ngôn, hiệu Văn Trai biên soạn, in năm Thành Thái Nhâm Dần (1902) mang ký hiệu A2975, dày 70 trang (1). Đây có lẽ là cuốn sách có nội dung gần với truyền thuyết dân gian hiện đang được lưu truyền ở 2 làng Mậu Xương và Bồi Quang hơn cả. Theo tài liệu này, cốt truyện chủ yếu là: Quỳnh Lâm hầu Trần tướng công làm quan lớn đầu đời Lê Trung Hưng (1533 – 1593), muộn con, cầu tự ở chùa Tuyết Phong, Mậu Xương. Quỳnh Lâm hầu sinh ra một con trai vốn là vua nước Tây Vực đầu thai mà thành, tên là Trần Ngọc Lành, được gặp Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, được phong Thượng Sư và đến Từ Minh mở trường, thu nhận đệ tử. Thượng sư sinh 3 con trai, có chữ trên vai. Cả 3 đều tài giỏi và được phong Thánh. Con trưởng của Tiền Quan là Hậu Quan. Tam thánh qua đời thời Vĩnh Thịnh (1705-1719). Đồ đệ của Hậu Quan là Pháp Cống lừa bắt được Liễu Hạnh và quy phục làm đệ tử của Nội Đạo. Phần sau của cuốn sách này dành cho việc giới thiệu lai lịch của Bát Bộ Kim Cương, mười hai vị nguyên soái, về Bạch Xà thần tướng, Ngũ Hổ thần tướng, về thần binh 18 nước.

Bên cạnh các tư liệu trên, liên quan hoặc ghi lại hiện tượng có liên quan đến Nội Đạo Tràng còn có trong: Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ; Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4 của Nguyễn Đổng Chi (có dẫn lại tư liệu về Sòng Sơn đại chiến sử của Lăng Tuyết) và tư liệu Sự ra đời của Nội Đạo Tràng ở Việt Nam, thông báo của trường Viễn Đông Bác Cổ (BEFEO), số 34 – 1943. Bài thuyết trình ngày 5-1-1940 của giáo sư Nguyễn Văn Huyên in trong bộ sách Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam (tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, từ trang 481 – 484) (2). Ngoài ra, còn một số bài viết hoặc đoạn tư liệu rải rác in trên báo chí có liên quan hoặc nhắc tới Nội Đạo Tràng.

Đến đây, cũng cần nhận thức rằng, để có cái nhìn chuyên sâu về một đối tượng khảo cứu là Nội Đạo Tràng, ngoài việc truy cứu dữ liệu từ truyền thuyết dân gian và tư liệu sách vở có ghi chép, tất yếu phải xem xét chi tiết, cụ thể những di vật văn hóa của Nội Đạo còn đọng lại, những nghi thức tế lễ qua các ngày đại kỵ được tổ chức ở An Đông, Mậu Xương, Từ Minh với tất cả các cách thức mang tính nguyên hợp vốn có của nó. Và thêm nữa, cần có sự khảo cứu ở các địa danh qua các vùng đất khác có liên quan đến Nội Đạo như Nghệ An, Hà Tây, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương,… thì vấn đề Nội Đạo Tràng, một hiện tượng có vóc dáng của một tôn giáo bản địa độc đáo mới hiện diện và bộc lộ bản chất đích thực của nó.

Qua khảo sát bước đầu thực trạng Nội Đạo Tràng ở Thanh Hóa và soi qua một số công trình đã công bố về Nội Đạo Tràng, chúng tôi muốn gợi mở đôi điều sau đây:

1. Hầu hết các cụ già ở các làng Mậu Xương, An Đông và Từ Minh, nơi đã và đang lưu truyền các câu chuyện liên quan đến Nội Đạo Tràng, đều hiểu rằng đó là Trường dạy học Nội Đạo. Ngay học giả Nguyễn Văn Huyên khi giới thiệu Sự ra đời của Nội Đạo Tràng ở Việt Nam cũng coi Nội Đạo Tràng chính là Trường học Nội Đạo. Có lẽ, những người hiểu và giải thích nghĩa của Nội Đạo Tràng như trên đã căn cứ vào sự xuất hiện và tồn tại trong một thời gian dài của các trường đào tạo đệ tử cho Nội Đạo ở đất Từ Minh, Trường thuật sĩ ở Nghệ An, Trường thuật sĩ ở Hải Dương, Trường thuật sĩ của Nội Đạo ở Trung Quốc.

Xem lại chữ Tràng trên các bức đại tự có khắc ba chữ Nội Đạo Tràng treo tại các chùa – đền Mậu Xương, An Đông, Từ Minh và đối chiếu với các từ điển Hán – Việt thì nó không mang nghĩa là trường học mà mang nghĩa hoàn toàn khác, là chỉ nơi chốn, địa điểm tồn tại hoặc lưu giữ một vật, một sự kiện hoặc hiện tượng nào đấy. Ngoài ra, nó có thể được hiểu theo nghĩa chỉ một bộ phận, một tổ chức có tính độc lập như trong cụm từ Trưởng Tràng dùng cho các môn phái võ lâm chẳng hạn. Không đồng ý với cách hiểu nghĩa của Tràng là trường học, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh có nhận xét: “Xưa Nội Đạo tràng là một đạo tràng lập ra trong cung vua. Nay cơ sở này lập ở một làng có thượng sư chữa bệnh bằng phù phép cho vua, tuyệt nhiên không có nghĩa là Trường học Nội Đạo, coi đó là Đạo gọi là Nội Đạo”(3).

2. Không đồng ý với cách hiểu Nội Đạo Tràng chính là trường học (dạy) của Nội Đạo như tác giả Nguyễn Duy Hinh là chính xác. Nhưng quan niệm Nội Đạo Tràng ở An Đông chính là một dạng của cơ sở đạo tràng lập ra trong cung vua thì có lẽ cần xem xét lại. Thực tế là các triều Trần, Lê trong lịch sử nước ta, đã từng có một khu vực dành cho cơ sở Đạo Tràng. Nhưng cơ sở đó thực chất chỉ là địa điểm để tàng trữ các sách kinh, kệ của Đạo giáo, Phật giáo (một dạng thư viện tôn giáo) phục vụ cho một bộ phận chức năng nào đó của triều đình. Nếu khảo lại các truyền thuyết và các tư liệu sử sách có liên quan trực tiếp đến Nội Đạo Tràng An Đông và dáng dấp tồn tại theo các tiêu chí của một tôn giáo thực thụ của nó như chúng tôi đã nêu ra ở trên thì thật khó lý giải cho cơ sở “Đạo Tràng lập ra trong cung vua” như đã đề cập.

3. Không ít nhà nghiên cứu đi đến nhìn nhận Nội Đạo Tràng An Đông chỉ dừng lại ở góc độ bề nổi đạo pháp của nó, nghĩa là thiên về các hành vi tôn giáo bí hiểm như bùa chú, phù phép phù thủy. Coi Nội Đạo Tràng như “Một đạo phái ra đời vào cùng khoảng thời gian xuất hiện đạo Mẫu”, tác giả của Đạo Mẫu ở Việt Nam cho rằng: “Đây là đạo phù thuỷ đã được nâng cao với phương thức dùng phù chú, ấn quyết”(4). Cùng quan điểm như vậy, tác giả của Người Vịêt Nam với Đạo giáo nhận xét: “Nội Đạo Tràng là hiện tượng phù chú phái của Đạo giáo nhưng đã thâm nhập Phật giáo và Nho giáo”(5). Và trong công trình khảo sát rộng hơn, kỹ lưỡng hơn về các hình thức tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Đăng Duy đã đi sâu nghiên cứu các biểu hiện giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc Việt Nam. Theo nhận xét khái quát của ông “tôn giáo là một cách lý giải mang danh nghĩa một giáo chủ về sự giáng thế và cứu thế một cách siêu hình, nhằm làm cho người ta tin theo, gây thành nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy”. Cũng theo tác giả này, những yếu tố cấu thành tôn giáo bao gồm: Giáo chủ, Giáo lý, Giáo hội, Giáo đường. Và mặc dù chưa thấy tác giả tìm hiểu Nội Đạo Tràng An Đông nhưng ông đã đi đến nhận xét khái quát: “ở nước ta không có tôn giáo, mà chỉ có các tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ thần, tín ngưỡng thờ Mẫu”(6).

Quả thật, dù mới bước đầu khảo sát thực trạng của Nội Đạo Tràng ở An Đông, Mậu Xương, Từ Minh, chúng ta vẫn có thể ít nhất nhặt ra được những yếu tố cấu thành tôn giáo, “hay những điều kiện để tôn giáo ra đời tồn tại”. Những định nghĩa về tôn giáo của các học giả Tây phương như X.A.Tocarep, U. Lambert, G.V. Plêkhanốp,… như những gợi mở lý thú khi soi vào thực trạng Nội Đạo Tràng An Đông, dọn đường cho sự khảo cứu chuyên sâu, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn về một dòng đạo đích thực, một thứ tôn giáo bản địa độc đáo của văn hóa Việt Nam dù hiện nay nó hiện hình chỉ mờ tỏ trên đất Thanh Hóa. Nhưng nếu ngược qua các bước đường thăng trầm lịch sử của nó, sự nhận diện khuôn dạng riêng rẽ này của Nội Đạo Tràng chắc sẽ có những lý lẽ tích cực và đóng góp cho khoa học!

B.Q.T

_______________
Chú thích:

1. Hiện nay, cụ Nguyễn Thanh Vang ở Mậu Xương đang có cuốn gia phả họ Trần Ngọc bằng chữ Hán, cuốn Nội Đạo Tràng liệt thánh bảo lục của Nguyễn Tảo (chữ Hán) và bản dịch của Huyền Cư Tô Ngọc Cừ, Hà Nội, 1994 (đánh máy khổ giấy A4).

2. Thực ra, tác giả Nguyễn Văn Huyên đã gần như sao chép lại chuyện kể về Nội Đạo vốn được ghi chép lại trong cuốn Vân Cát thần nữ truyện của Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748) và bổ sung thêm câu chuyện về cuộc đại chiến Sòng Sơn vốn được ghi trong Thần tích làng Vân Cát của tổng Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, ở phần 2 có tựa đề Vân Cát thần nữ -hiện đang được lưu trữ tại thư viện Viện Hán Nôm, Hà Nội, ký hiệu AFa 15/18 có dấu của Viễn Đông Bác Cổ.

3, 5. Nguyễn Duy Hinh, Người Việt Nam với Đạo giáo, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003, tr.728, 735.

4. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2002, tr.153.

6. Nguyễn Đăng Duy, Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2001, tr.485.

——————-

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *